em hãy tưởng tượng mình là một người âu lạc kết hôn với người hán trong thời kì bắc thuộc, hãy kể về những điều mà em học được từ người hán trong cuộc sống

-độ dài khoảng 500 từ

-dưới dạng một cậu chuyện

-cố gắng đưa các nội dung đã học vào bài vt(bài 15 lịch sử )

2 câu trả lời

 Mỗi chúng ta sinh ra đều có sứ mệnh của riêng mình. Ta sinh ra là một công chúa được vua cha hết mực yêu thương, dân chúng kính mến. Thế nhưng ta lại không hoàn thành sứ mệnh của mình, đẩy dân chúng và cảnh khốn khổ lầm than, trở thành kẻ tội đồ của cả đất nước. Ta là Mị Châu - con gái vua An Dương Vương. Sai lầm của ta chính là câu chuyện của vua cha, ta và Trọng Thủy.

Kế thừa sự nghiệp dựng nước và giữ nước của 18 vị Hùng vương, cha ta đánh tan năm mươi vạn quân Tần xâm lược; đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc rồi dời đô tới Phong Khê. Cha nhanh chóng bắt đầu xây thành, nhưng kỳ lạ là ngày xây lên đêm lại đổ xuống, mãi không xong. Ông sai các quan lập đàn để cầu đảo bách thần, xỉn thần linh phù trợ. Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy, cha nói mình nhìn thấy một cụ già râu tóc bạc phơ, tay chống cây gậy trúc, thong thả từ phía Đông đỉ tới trước cổng thành, ngửa cổ mà than rằng: “Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong được!”. Mừng rỡ, cha rước cụ già vào điện, kính cẩn hỏi nguyên cớ xây thành bị đổ và được cụ hồi đáp “Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng thì mới thành công”.

Sáng hôm sau, một con rùa lớn nổi lên mặt nước, tự xưng là sứ Thanh Giang, bảo rằng muốn xây được thành thì phải diệt trừ hết lũ yêu quái thường hay quấy nhiễu xung quanh. Rùa Vàng giúp cha ta diệt trừ yêu quái, đến khi xây xong thành ở lại ba năm rồi rời đi. Cha luôn lo lắng thái bình cho nhân dân, vì vậy lúc chia tay, ông cảm tạ: “Nhờ ơn Thần mà thành đã xây xong. Nay nếu có giặc ngoài đến thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng tháo một chiếc vuốt trao cho cha ta, dặn lấy làm lẫy nỏ, giặc đến, cứ nhằm bắn thì sẽ không lo gì nữa. Dứt lời, Rùa Vàng trở về biển Đông. Cha theo lời dặn, sai một tướng tài là Cao Lỗ chế ra chiếc nỏ lớn lấy vuốt của Rùa Vàng làm lẫy gọi là nỏ thần Kim Quy.

Lúc bấy giờ ở đất Nam Hải, có Triệu Đà làm chúa, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng cha có nỏ thần, quân Nam Hải bị thất bại rất nhiều. Triệu Đà chợt không động tĩnh một thời gian. Sau đó, ta thấy hắn xin giảng hòa với cha, sai con trai là Trọng Thuỷ sang cầu thân ta. Mãi sau này, khi quân Đà kéo sang mà nỏ thần mất đi công hiệu, ta mới hiểu mục đích của hắn là hủy đi nỏ thần.

Trọng Thủy gặp ta, khi ấy là một thiếu nữ mắt phượng mày ngài. Trọng Thủy đem lòng yêu ta, dần dần ta cũng xiêu lòng. Chúng ta dần trở nên thân thiết, ta dẫn chàng tới mọi nơi trong Loa thành. Cha ta không nghi kỵ gì cả. Sau một thời gian, vua cha liền gả ta cho Trọng Thủy. Chàng sang ở trong cung điện của cha mà không quay lại nước mình, cùng chung sống. Một đêm, Trọng Thủy chợt hỏi ta:

- Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được?

Ta không để ý nhiều, vô tư đáp:

- Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được!

Thấy chàng ngạc nhiên, ngỏ ý muốn xem, ta cho rằng chàng chưa nghe danh nỏ thần bao giờ nên ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bắn. Trọng Thủy chăm chú nghe, nhìn cái lẫy và khuôn khổ nó hồi lâu, rồi đưa cho ta cất đi.

Sau đó ít lâu, Trọng Thủy xin phép cha ta về Nam Hải. Khi Trọng Thủy quay lại, tôi vui mừng khôn xiết. Thấy vậy, cha liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và ta thì say túy lúy. Hôm sau, thấy chàng bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, ta hỏi:

- Chàng như có gì lo lắng phải không?

Trọng Thủy đáp:

- Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ.

Nghe vậy, ta buồn rầu lặng thinh. Trọng Thủy nói tiếp:

- Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?

Ta tin lời chàng, đau đớn đáp lại:

- Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.

Nói xong, nghĩ đến việc không được gặp lại nhau tôi bật khóc nức nở.

Chỉ ít ngày sau khi Trọng Thủy đi, Triệu Đà bất ngờ đem quân sang đánh. Nghe tin báo, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Quân giặc đã đến sát chân thành, cha mới đem nỏ thần ra bắn, nhưng không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để ta ngồi sau lưng, phi ngựa thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, ta nhớ lời hứa với Trọng Thủy, bứt lông ngỗng ở áo rải khắp dọc đường chạy trốn.

Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy suốt mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con ta định xuống ngựa ngồi nghỉ một lát thì quân giặc đã gần đến. Nhưng đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biến, khấn thần Kim Quy phù hộ. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:

- Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!

Cha quay đầu nhìn ta. Ngay lúc đó, ta cũng chợt đau đớn hiểu ra sự tình. Hóa ra cầu thân là có âm mưu. Trọng Thủy đã tráo nỏ thần nên nỏ của cha mới không còn hiệu nghiệm. Chàng trở về là để báo cho cha mình đem quân sang đánh Âu Lạc. Bao uấn khúc bấy giờ mới vỡ lẽ. Nhưng tất cả đều đã muộn, cha tuốt gươm, chém ta. Sự đau đớn trên cơ thể không lớn bằng nỗi dằn vặt trong tim. Ta nhìn theo bóng cha đang đi xuống biển, lòng ngập tràn ân hận về tội nghiệt mình gây ra cho ông, cho dân chúng vô tội. Ta thầm cầu mong cha được bình yên mọi sai lầm ta đã gây ra, ta nguyện chịu tất cả sự trừng phạt. Còn Trọng Thuỷ chỉ là một mảnh tình duyên ngang trái, lầm lạc.

Câu chuyện của một người Âu Lạc

Ta tên là Mai, một thiếu nữ Âu Lạc xinh đẹp. Cuộc sống của ta trước kia thật bình dị. Ta cùng mẹ dệt vải, cùng cha đi bắt cá, rồi cùng làng xóm vui chơi những đêm trăng sáng. Nhưng rồi, giặc Hán đến, quê hương ta trở nên loạn lạc. Cha mẹ ta mất, ta bị bắt làm nô lệ.

Trong một lần may mắn, ta được gả cho một chàng trai Hán làm việc trong dinh thự của quan lại. Ban đầu, ta rất sợ hãi và ghét bỏ họ. Ta nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ những cánh đồng lúa chín vàng. Ta không hiểu ngôn ngữ của họ, không quen phong tục tập quán của họ.

Nhưng rồi, dần dần, ta nhận ra rằng không phải người Hán nào cũng xấu xa. Chàng chồng của ta tuy là người xa lạ nhưng lại rất tốt bụng. Chàng dạy ta nói tiếng Hán, dạy ta cách viết chữ, dạy ta những kiến thức mới lạ về thiên văn, địa lý.

Ta học được cách may vá những bộ quần áo đẹp hơn, cách nấu những món ăn ngon hơn. Ta còn được nghe chàng kể về những câu chuyện cổ tích của người Hán, về những vị anh hùng hào kiệt. Qua những câu chuyện đó, ta hiểu thêm về văn hóa, về lịch sử của đất nước họ.

Dần dần, những hận thù trong lòng ta tan biến. Thay vào đó là sự tò mò, là lòng biết ơn. Ta bắt đầu yêu quý cuộc sống mới này. Ta học được rất nhiều điều từ chàng, từ những người xung quanh.

Một hôm, chàng đưa ta đến thư viện của dinh thự. Ta được đọc những cuốn sách cổ, được biết đến những phát minh vĩ đại của người Hán. Ta rất ngạc nhiên khi biết rằng người Hán đã biết làm giấy, làm ra la bàn từ rất lâu rồi.

Ta cũng được biết đến những công trình kiến trúc đồ sộ của người Hán như Vạn Lý Trường Thành, như Tử Cấm Thành. Ta cảm thấy thật nhỏ bé trước những công trình vĩ đại đó. Nhưng đồng thời, ta cũng cảm thấy tự hào về đất nước mình, về những truyền thống văn hóa lâu đời của dân tộc ta.

Tuy sống trong hoàn cảnh khó khăn, nhưng ta luôn cố gắng học hỏi và trau dồi bản thân. Ta muốn một ngày nào đó, ta sẽ quay về quê hương, sẽ truyền dạy những kiến thức mà ta đã học được cho bà con làng xóm.

Kết luận

Câu chuyện của Mai là một câu chuyện nhỏ bé trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động. Nhưng câu chuyện đó lại phản ánh một thực tế: sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc là điều không thể tránh khỏi.

Trong thời kỳ Bắc thuộc, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hóa của người Hán như chữ viết, khoa học kỹ thuật... Tuy nhiên, văn hóa Việt vẫn giữ được những nét đặc trưng riêng. Điều đó chứng tỏ sức sống mãnh liệt của văn hóa dân tộc.

Câu chuyện của Mai cũng nhắc nhở chúng ta về lòng nhân ái, về sự khoan dung. Dù khác biệt về ngôn ngữ, về phong tục tập quán, nhưng chúng ta vẫn có thể chung sống hòa bình và cùng nhau phát triển.

Liên hệ với bài học lịch sử

Câu chuyện trên liên quan đến bài 15 lịch sử lớp 6, phần nói về thời kỳ Bắc thuộc. Qua câu chuyện, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về những chính sách đồng hóa của nhà Hán, về cuộc sống của người dân Âu Lạc dưới ách đô hộ. Đồng thời, câu chuyện cũng cho thấy sự tiếp thu có chọn lọc của người Việt đối với văn hóa của người Hán.

Mở rộng

Câu chuyện của Mai chỉ là một trong vô vàn câu chuyện về cuộc sống của người dân Việt trong thời kỳ Bắc thuộc. Mỗi câu chuyện đều mang một màu sắc riêng, nhưng tất cả đều góp phần làm nên bức tranh lịch sử sinh động và đa dạng

Câu hỏi trong lớp Xem thêm