(CHỤP VỞ NHÉ) chứ viết ra đây là báo mod (CÀNG DÀI CÀNG TỐT) Viết bài văn cảm nhận khổ 3,4 của ÔNG ĐỒ "Nhưng mỗi năm mỗi vắng .................. Ngoài giời mưa bụi bay"

2 câu trả lời

Đây là phần thứ hai bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên, một bài thơ ngũ ngôn kiệt tác trong nền ‘Thơ mới” trước năm 1945. Hình tượng thơ, giọng thơ buồn tê táu cứ thấm vào hồn người:

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng

Người thuê viết nay dâu ?

Giấy đỏ buồn không thắm

 Mực đọng trong nghiên sầu...

Ông đồ vẫn ngồi dấy

Qua đường không ai hay,

Lá vàng rơi trên giấy;

Ngoài giời mưa bụi bay”...

Nhiều năm tháng đã trôi qua. Đâu còn những mùa xuân rực rỡ nữa ? Đâu còn cảnh những ngày tưng bừng, rộn ràng bên đường phố, khi ông đồ “Hoa tay thảo những nét - Như phượng múa rống bay". Đâu còn nữa một thời vang bóng: “Bao nhiêu người thuê viết - Tấm tắc ngợi khen tài”? Tương phản với một quá khứ huy hoàng là một hiện tại cô đơn, trơ trọi. Câu hỏi tu từ cất lên như một tiếng thở dài ngao

ngán. Chua xót vì sự đổi thay của thế sự, vì sự lạnh nhạt của người đời. Dòng chảy thời gian trôi buồn dài lê thê, càng trở nên trống vắng:

“Nhưng mỗi năm mồi vắng

Người thuê viết nay đâu ?”

Vũ Đình Liên đã lấy sự vật để đặc tả hồn người, tình người tê tái:

“Giấy đỏ buồn không thắm;

Mực đọng trong nghiên sầu”...

“Giấy đỏ” vì nỗi đau của người mà đã nhạt phai, nhạt nhòa “buồn không thắm” nữa. Nghiên mực xưa ngát thơm mực Tàu đen nhánh nay trở thành “nghiên sầu” đáng thương; mực đã bị khô, bị chết, bị đọng lại một cách buồn đau. Giấy đỏ, nghiên mực... được nhân hóa đê cực tả nỗi buồn cô đơn của một lớp người tài tình sinh bất „ phùng thời trong cõi bể dâu. ‘Thôi có ra gì cái chữ Nho” khi Hán tự đã mạt vận !

Những mùa hoa đào nối tiếp đi qua... Giữa một không gian rét mướt, chỉ còn thấy hình bóng một ông đồ già trơ trọi đáng thương:

“Ông đồ vẫn ngồi dấy

Qua đường không ai hay".

Ba chữ “vẫn ngồi đấy” gợi tả một hình nhân bất động, vô cảm và vô hồn. Bị lãng quên trong lòng người và trong dòng đời, còn ai đoái hoài ông đồ nữa: “Qua đường không ai hay”! Dư vị của vần thơ là cả một nỗi buồn cay đắng, chua xót !

Bài thơ “Chợ Đồng” của Tam nguyên Yên Đổ đã ghi lại bao cảnh buồn thê lương của phiên chợ Tốt nơi làng quê trong những năm đầu của thế kỉ trước. Người đi chợ về lầm lũi, tầm tã trong một không gian “Dở trời mưa bụi còn hơi rét”, chỉ nghe một nỗi buồn cơ cực “xáo xác” mà thôi:

“Hàng quán người về nghe xáo xác,

Nợ nần năm hết hỏi lung tung”

Ta lại bắt gặp làn mưa bụi trong bài thơ “Ông đồ”. Một thân phận hiện hữu đáng buồn và đáng thương, xót xa và sầu tủi:

“Lá vàng rơi trên giấy;

Ngoài giời mưa bụi bay”...

Giấy đỏ bị phủ đầy lá vàng sao mà chẳng “buồn không thắm”? Màu vàng tàn tạ của lá rụng, làn mưa bụi tiết đại hàn cuối đông, như phủ mờ đất trời, làm xót xa, tê tái lòng .người. “Lá vàng”, “mưa bụi bay” là hai hình ảnh tượng trưng cho một sự lụi tàn để lại nhiều thương cảm. Hình bóng ông đồ già bất động như một pho tượng cổ cứ mờ dần, nhạt nhòa dần trên nền “vàng” của lá rụng, trong màu trắng đục, trắng mờ của làn “mưa hụi bay” buổi đông tàn.

Thơ hay bao giờ cũng để lại, đọng lại một cái gì đó trong lòng người. Nỗi cảm thương xót xa là cái tình, là chất nhân văn của đoạn thơ này đã đọng lại trong hồn ta. Hình tượng thơ mang ý nghĩa tượng trưng mà sâu sắc, gợi cảm. Thương ông đồ già, thương một lớp người tài tình, ta lại tiếc thương nền văn hóa của quê hương bị lụi tàn. Cái nghiên sầu của ông đồ già cứ ám ảnh hoài, ám ảnh mãi.

Ông đồ già “Những người muôn năm cũ - Hồn ở đâu bây giờ ?”...

Khổ thơ cuối là cả một nỗi buồn thương thấm sâu vào câu, chữ. Cảnh đây mà người đâu: “Năm nay đào lại nở - Không thấy ông đồ xưa”. Các từ ngữ: “không thắm”, “không ai hay”, và “không thấy” như đưa dần người đọc vào cõi hư vô, bùi ngùi thương xót ! Câu thơ cảm thán xoáy vào lòng người một tình thương

Dàn ý

1. Mở bài

- Khái quát về tác giả Vũ Đình Liên, một nhà thơ nổi bật với thiên hướng văn chương mang nặng nỗi tiếc thương và sự hoài niệm quá khứ.

- Giới thiệu bài thơ Ông đồ: Một trong những bài thơ bình dị mà cảm động, nhìn vào đó, mỗi người sẽ có cảm giác “sám hối...với lớp người đang đi về cõi chết”- ông đồ.

- Giới thiệu đoạn trích: đoạn trích thuộc khổ 3 và khổ 4 nói về hình ảnh ông đồ khi nho học lụi tàn.

2. Thân bài

- “Nhưng mỗi năm mỗi vắng”: từ “nhưng” tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất.

- “Người thuê viết nay đâu?”: câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn.

⇒ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu ⇒ nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen.

- “Giấy đỏ ...nghiên sầu”: Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn động trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được.

- “Lá bàng...mưa bị bay”: Tả cảnh ngụ tình: nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo ⇒ tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phận.

=> Bằng nghệ thuật nhân hóa cùng với biện pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã vẽ nên chân dung của ông đồ tội nghiệp thời Nho học lụi tàn và để lại nhiều nỗi niềm bâng khuâng tiếc nuối trong lòng độc giả.

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ: Khắc họa thành công hình ảnh ông đồ và câu chuyện về cuộc đời của người nghệ sị Nho học với kết cấu chặt chẽ, ngôn từ gợi cảm...

- Liên hệ bài học hiện nay: Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.