Read the following passage and mark the letter A, B, C, or D on your answer sheet to indicate the correct answer to each of the questions.
The peregrine falcon, a predatory bird indigenous to North America, was once in danger of extinction. In the 1960s, scientists discovered byproducts of the pesticide DDT in the birds' eggs, which caused them to be too soft to survive. The use of the pesticide had been banned in the United States, but the falcons were eating migratory birds from other places where DDT was still used. In order to increase the survival rate, scientists were raising the birds in laboratories and then releasing them into mountainous areas. This practice achieved only moderate success, however, because many of the birds raised in captivity could not survive in
the wild.
There is now, however, a new alternative to releases in the wild. A falcon that has been given the name Scarlett chose to make her home on a ledge of the 33rd floor of a Baltimore, Maryland, office building rather than in the wild, and, to the surprise of the scientists, she has managed to live quite well in the city. Following this example, programs have been initiated that release birds like Scarlett into cities rather than into their natural wild habitat. These urban releases are becoming a common way to strengthen the species. Urban homes have several benefits for the birds that wild spots do not. First, there is an abundance of pigeons and small birds as food sources. The peregrine in the city is also protected from its main predator, the great horned owl. Urban release programs have been very successful in reestablishing the peregrine falcons along the East Coast. Though they are still an endangered species, their numbers increased from about 60 nesting pairs in 1975 to about 700 pairs in 1992. In another decade the species may flourish again, this time without human help.
According to the passage, which of the falcon’s main predator?
Trả lời bởi giáo viên
Theo đoạn văn, kẻ săn mồi chính nào của chim ưng?
A. chim bồ câu
B. rắn đuôi chuông
C. cú
D. con người
Thông tin: First, there is an abundance of pigeons and small birds as food sources. The peregrine in the city is also protected from its main predator, the great horned owl.
Tạm dịch: Đầu tiên, có rất nhiều chim bồ câu và các loài chim nhỏ làm nguồn thức ăn. Peregrine trong thành phố cũng được bảo vệ khỏi động vật ăn thịt chính của nó, con cú sừng lớn.
Hướng dẫn giải:
Kiến thức: Đọc hiểu
Giải thích thêm:
Dịch bài đọc:
Chim ưng peregrine, một loài chim săn mồi bản địa ở Bắc Mỹ, từng có nguy cơ tuyệt chủng. Vào những năm 1960, các nhà khoa học đã phát hiện ra sản phẩm phụ của thuốc trừ sâu DDT trong trứng chim, khiến chúng quá mềm để tồn tại. Việc sử dụng thuốc trừ sâu đã bị cấm ở Hoa Kỳ, nhưng những con chim ưng đang ăn thịt các loài chim di cư từ những nơi khác, nơi DDT vẫn được sử dụng. Để tăng tỷ lệ sống sót, các nhà khoa học đã nuôi chim trong phòng thí nghiệm và sau đó thả chúng vào các vùng núi. Tuy nhiên, cách làm này chỉ đạt được thành công vừa phải, vì nhiều loài chim được nuôi nhốt không thể sống sót trong
hoang dã.
Tuy nhiên, hiện nay đã có một giải pháp thay thế mới cho việc phát hành trong tự nhiên. Một con chim ưng đã được đặt tên Scarlett đã chọn làm nhà của mình trên một mỏm đá của tầng 33 của một tòa nhà văn phòng Baltimore, Maryland thay vì trong tự nhiên, và, trước sự ngạc nhiên của các nhà khoa học, nó đã xoay sở để sống khá tốt trong thành phố. Theo ví dụ này, các chương trình đã được khởi xướng nhằm thả những con chim như Scarlett vào các thành phố thay vì vào môi trường sống hoang dã tự nhiên của chúng. Những phát hành đô thị này đang trở thành một cách phổ biến để tăng cường sức mạnh của loài. Những ngôi nhà ở thành thị có một số lợi ích cho các loài chim mà những nơi hoang dã không có. Đầu tiên, có rất nhiều chim bồ câu và các loài chim nhỏ làm nguồn thức ăn. Peregrine trong thành phố cũng được bảo vệ khỏi động vật ăn thịt chính của nó, con cú sừng lớn. Các chương trình giải phóng đô thị đã rất thành công trong việc tái lập các loài chim ưng peregrine dọc theo Bờ biển phía Đông. Mặc dù chúng vẫn là một loài có nguy cơ tuyệt chủng, nhưng số lượng của chúng đã tăng từ khoảng 60 cặp làm tổ vào năm 1975 lên khoảng 700 cặp vào năm 1992. Trong một thập kỷ nữa, loài này có thể sinh sôi trở lại, lần này mà không cần sự trợ giúp của con người.