Thực hiện các yêu cầu dưới đây Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau

Trả lời Câu 1 trang 16 sgk Ngữ văn 11 Tập 1 Chân trời sáng tạo chi tiết trong bài Ai đã đặt tên cho dòng sông giúp học sinh dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 11. Mời các bạn đón xem:

Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông

Câu 1 trang 16 Ngữ văn 11 Tập 1Thực hiện các yêu cầu dưới đây: 

a. Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau (thiên nhiên, lịch sử, văn hoá,...). 

b. Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản. 

c. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả qua một đoạn văn trong văn bản. 

Trả lời:

a. Viết về dòng sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong chất thơ của ông sự hiểu biết rộng lớn về thế giới xung quanh trong nhiều lĩnh vực: văn hóa, văn học, lịch sử, địa lí và nghệ thuật… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc nguồn thông tin phong phú, thú vị để hiểu sâu sắc hơn về sông Hương, về vẻ đẹp thiên nhiên cùng con người xứ Huế.

* Vẻ đẹp sông Hương về địa lý:

– Hành trình của dòng sông: nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gây tò mò cho người đọc với câu hỏi về nguồn gốc dòng sông và khi đi dọc theo quá trình đi khám phá dòng sông, tác giả cũng tìm thấy được cội nguồn của sông Hương:

+ Thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.

+ Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” → Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.

Sông Hương trở nên dịu dàng đến lạ khi chảy qua vùng núi rừng hiểm trở: “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, cứ thế êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi như thành quách, chảy qua các lăng tẩm đồ sộ, qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.

→ Tất cả những gì thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Hương xứ Huế là tinh túy và tuyệt vời nhất để rồi dòng sông như trở thành “người mẹ phù sa” và mang trong mình vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.

+ Khi chảy đến giữa thành phố Huế, dòng sông bỗng dịu dàng, tĩnh lặng, lững lờ trôi thật chậm, in cả bóng cầu Tràng Tiền trông từ phía xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.

+ Xuôi về phía dưới Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa cùng màu xanh bao trùm của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi ra khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng… để gặp lại thành phố lần cuối”.

+ Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.

 → Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay.

– Sông Hương và thiên nhiên xứ Huế: Tiếp bước theo dòng chảy của sông Hương, ta sẽ bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đẹp đến mê hồn:

+ Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…→ Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.

– Sông Hương và con người xứ Huế:

+ Thiên nhiên cùng dòng sông luôn đồng hành, gắn bó, gần gũi với con người. Tính cách con người xứ Huế được thể hiện qua dòng chảy sông Hương: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”.

+ Qua màu sắc không gian đất trời của Huế, màu sương khói ẩn hiện trên sông Hương, người con gái xứ Huế hiện lên qua ánh nhìn tinh tế của nhà văn với trang phục trang nhã, dịu dàng đậm chất người con gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”.

* Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên từ góc nhìn lịch sử:

– Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái “Di – gan man dại”, cũng không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”

→ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”.

– Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử:

+ Nhìn lại quá khứ để một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của dòng sông Hương trong những trang sử dân tộc. Từ thời đại Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong các giai đoạn trung đại của lịch sử, sông Hương với tên gọi Linh Giang, đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Dòng sông gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 và cùng đó là những chiến công vang dội rung chuyển non sông. Và sông Hương cùng rất nhiều di sản văn hóa Huế phải oằn mình gánh vác sứ mệnh đất nước dưới sự tàn phá của bom Mỹ…

→ Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử.

→ Quay về một thời quá khứ đạn bom oanh liệt, nhà văn thể hiện rõ niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, nhẹ nhàng nhưng đầy kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:

Trong góc nhìn tinh tế của nhà văn, sông Hương còn chất chứa một nền văn hóa phi vật chất.

– Sông Hương – dòng sông âm nhạc:

+ Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người…

+ Quan sát sông Hương, nhà văn đã nhiều lần liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào cũng đã từng có quãng thời gian sống ở đây, những trang Kiều đã được ra đời trên mảnh đất cố đô này. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một người nghệ nhân già để lắng nghe những câu thơ tả về tiếng đàn của Kiều rồi chợt nhận ra được những rung cảm trong âm hưởng của âm nhạc cung đình và phải thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” → Bóng dáng đại thi hào Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần được thể hiện trong bài kí thể hiện khả năng liên tưởng vô cùng phong phú, với vốn văn hóa sâu rộng cùng sự gắn kết với những thông điệp truyền thống.

Sông Hương – dòng sông thi ca 

+ Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế.

+ Bên cạnh đó là một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…

→ Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ.

b. Cái tôi là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân (Ở phương diện khác, cái tôi là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Với văn học, cái tôi không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.

- Trong thể loại tuỳ bút, bút kí, cái tôi của người viết trở thành một hình tượng trung tâm và xuất hiện trực tiếp thành nhân vật tôi. Nếu trong truyện ngắn,  nhân vật tôi là hình tượng hư cấu thì trong kí, nhân vật tôi đồng nhất với tác giả. Sự hấp dẫn của thể loại này, xét đến cùng là là sự hấp dẫn của cái tôi tác giả.

Đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là:

*Một cái tôi uyên bác

- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương.

- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại.

*Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn

- Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng. 

- Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú.

+ Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh…

+ Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau.

- Thể hiện  ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương. 

   + Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ).

   + Vốn ngôn ngữ phong phú.

   + Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ.

*Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.

- Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương.

- Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết.

- Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn.

→ Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường: lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa. 

c. Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn.

Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. “… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.