Tài liệu soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 11. Mời các bạn đón xem:
Soạn bài Ai đã đặt tên cho dòng sông hay nhất
*Trước khi đọc
Câu 1 trang 11 Ngữ văn 11 Tập 1: Bạn đã biết gì về Huế? Hãy chia sẻ với các bạn về điều đó.
- Huế nằm ở vị trí trung tâm của đất nước và trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, Huế đã được Trung ương xác định là đô thị loại I, là Thành phố di sản văn hóa thế giới, một trung tâm văn hóa, du lịch đặc sắc, là thành phố Festival của Việt Nam.
- Thành phố Huế là kinh đô phong kiến cuối cùng của Việt Nam, vốn có lịch sử và truyền thống văn hóa lâu đời với những giá trị và bản sắc độc đáo.
- Các giá trị di sản văn hóa nơi đây thể hiện những nét riêng hấp dẫn của một vùng văn hóa, vừa mang tính đặc thù - bản địa, vừa mang tính dân tộc - phổ biến, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của các nền văn hóa Á Âu.
Trả lời:
Dựa vào nhan đề Ai đã đặt tên cho dòng sông và hình ảnh về dòng sông Hương được khắc họa trong ảnh làm người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của dòng sông Hương. Từ câu hỏi tu từ ngay ở nhan đề đã tạo dấu ấn nơi trái tim người đọc về vẻ đẹp cổ kính, kì bí nhưng đậm chất lãng mạn của dòng sông nơi vùng đất cố đô.
*Đọc văn bản
- Đoạn văn này miêu tả khúc sông Hương ở thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.
+ Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”
→ Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.
Trả lời:
Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…
→ Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.
Trả lời:
Tình cảm của tác giả đối với dòng sông Hương được cảm nhận bằng các giác quan với sự tinh tế và nhạy cảm của một người nghệ sĩ – vừa là một họa sĩ tài ba vừa là một nhạc sĩ rung cảm đắm say trước cái đẹp của sông Hương. Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình, sông Hương cũng giống sông Seine của Pari, sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Dưới cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương được đối sánh trong các ngành nghệ thuật, sông Hương về với Huế như hồn gặp xác, là tiếng nói của người con gái đi được nửa cuộc đời và tìm được người tình nhân đích thực. Sông Hương đã làm cho Huế đẹp một cách trầm lặng và có chút gì đó hấp dẫn nhưng rất kín đáo.
Từ góc độ văn hóa, trong cách nhìn với âm nhạc tác giả đã gắn sông Hương với một nền âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Từ đó, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liên hệ đến việc nghe hát trên sông Hương.
Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. Từ góc nhìn văn hóa, người nghệ sĩ đã tưởng tượng về đại thi hào Nguyễn Du, về Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Nhà văn đã đặt hình ảnh dòng sông trong mối quan hệ với tiếng chuông chùa ngân nga khi vào Huế để nhìn nhận.
Đọc “Ai đã đặt tên cho dòng sông” không khó để nhận thấy, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã miêu tả lại một cách chi tiết, sinh động và độc đáo về thủy trình của sông Hương từ thượng nguồn đến trước khi ra biển. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bằng tất cả tình yêu, sự say đắm với sông Hương, với Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương ở vẻ đẹp của lịch sử qua hình ảnh “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Thật vậy, sông Hương hiện lên là dòng sông của lịch sử. Nhìn lại suốt cả chặng đường dài của lịch sử dân tộc, sông Hương đã góp sức mình làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc. Thời kì dựng nước, nó là dòng sông biên thùy xa xôi, thời kì trung đại, gắn với tên tuổi của anh hùng Nguyễn Trãi. Và để rồi trong suốt thế kỉ XIX hay trong cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 và cả mùa xuân năm 1968, sông Hương đã ghi dấu lại những chiến công vẻ vang của dân tộc. Thêm vào đó, sông Hương còn là dòng sông của cuộc đời. Nó như một người con gái dịu dàng của đất nước. Người con gái ấy khi nghe lời gọi, đã “sẵn sàng hiến cuộc đời mình để làm một chiến công” và để rồi khi trở về với cuộc sống đời thường, sông Hương lại là một người con gái dịu dàng.
*Sau khi đọc
Câu 1 trang 16 Ngữ văn 11 Tập 1: Thực hiện các yêu cầu dưới đây:
b. Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện cái “tôi” của tác giả trong văn bản.
c. Phân tích vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả qua một đoạn văn trong văn bản.
a. Viết về dòng sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong chất thơ của ông sự hiểu biết rộng lớn về thế giới xung quanh trong nhiều lĩnh vực: văn hóa, văn học, lịch sử, địa lí và nghệ thuật… Nhà văn đã cung cấp cho người đọc nguồn thông tin phong phú, thú vị để hiểu sâu sắc hơn về sông Hương, về vẻ đẹp thiên nhiên cùng con người xứ Huế.
* Vẻ đẹp sông Hương về địa lý:
– Hành trình của dòng sông: nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” gây tò mò cho người đọc với câu hỏi về nguồn gốc dòng sông và khi đi dọc theo quá trình đi khám phá dòng sông, tác giả cũng tìm thấy được cội nguồn của sông Hương:
+ Thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn…”; “phóng khoáng và man dại”.
+ Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, “ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng” → Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.
Sông Hương trở nên dịu dàng đến lạ khi chảy qua vùng núi rừng hiểm trở: “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. “Dòng sông mềm như tấm lụa”, cứ thế êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi như thành quách, chảy qua các lăng tẩm đồ sộ, qua chùa Thiên Mụ và “những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”.
→ Tất cả những gì thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Hương xứ Huế là tinh túy và tuyệt vời nhất để rồi dòng sông như trở thành “người mẹ phù sa” và mang trong mình vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
+ Khi chảy đến giữa thành phố Huế, dòng sông bỗng dịu dàng, tĩnh lặng, lững lờ trôi thật chậm, in cả bóng cầu Tràng Tiền trông từ phía xa nhỏ nhắn như “những vành trăng non”.
+ Xuôi về phía dưới Cồn Hến “quanh năm mơ màng trong sương khói”, hòa cùng màu xanh bao trùm của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi ra khỏi kinh thành Huế, sông Hương “đột ngột rẽ dòng… để gặp lại thành phố lần cuối”.
+ Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: “Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”.
→ Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay.
– Sông Hương và thiên nhiên xứ Huế: Tiếp bước theo dòng chảy của sông Hương, ta sẽ bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đẹp đến mê hồn:
+ Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: “sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “sắc nước trở nên xanh thẳm”…→ Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.
– Sông Hương và con người xứ Huế:
+ Thiên nhiên cùng dòng sông luôn đồng hành, gắn bó, gần gũi với con người. Tính cách con người xứ Huế được thể hiện qua dòng chảy sông Hương: mềm mại, chí tình, “mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở”.
+ Qua màu sắc không gian đất trời của Huế, màu sương khói ẩn hiện trên sông Hương, người con gái xứ Huế hiện lên qua ánh nhìn tinh tế của nhà văn với trang phục trang nhã, dịu dàng đậm chất người con gái Huế xưa “sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng”.
* Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên từ góc nhìn lịch sử:
– Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái “Di – gan man dại”, cũng không còn là “người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa” mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như “sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc”
→ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca “Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ…”.
– Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến “những cây đa, cây cừa cổ thụ” cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử:
+ Nhìn lại quá khứ để một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của dòng sông Hương trong những trang sử dân tộc. Từ thời đại Vua Hùng, sông Hương là “dòng sông biên thùy xa xôi”. Trong các giai đoạn trung đại của lịch sử, sông Hương với tên gọi Linh Giang, đã “oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt”. Dòng sông gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 và cùng đó là những chiến công vang dội rung chuyển non sông. Và sông Hương cùng rất nhiều di sản văn hóa Huế phải oằn mình gánh vác sứ mệnh đất nước dưới sự tàn phá của bom Mỹ…
→ Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử.
→ Quay về một thời quá khứ đạn bom oanh liệt, nhà văn thể hiện rõ niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, nhẹ nhàng nhưng đầy kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.
* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:
Trong góc nhìn tinh tế của nhà văn, sông Hương còn chất chứa một nền văn hóa phi vật chất.
– Sông Hương – dòng sông âm nhạc:
+ Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền…) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người…
+ Quan sát sông Hương, nhà văn đã nhiều lần liên tưởng đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đại thi hào cũng đã từng có quãng thời gian sống ở đây, những trang Kiều đã được ra đời trên mảnh đất cố đô này. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một người nghệ nhân già để lắng nghe những câu thơ tả về tiếng đàn của Kiều rồi chợt nhận ra được những rung cảm trong âm hưởng của âm nhạc cung đình và phải thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh” → Bóng dáng đại thi hào Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần được thể hiện trong bài kí thể hiện khả năng liên tưởng vô cùng phong phú, với vốn văn hóa sâu rộng cùng sự gắn kết với những thông điệp truyền thống.
Sông Hương – dòng sông thi ca
+ Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: “Dòng sông trắng – Lá cây xanh”. Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả “màu cỏ lá xanh biếc” là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế.
+ Bên cạnh đó là một sông Hương hùng tráng bất tử “như kiếm dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương “nỗi quan hoài vạn cổ” trong thơ Bà Huyện Thanh Quan…
→ Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ.
b. Cái tôi là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân (Ở phương diện khác, cái tôi là biểu hiện cao độ của ý thức cá nhân, xuất hiện khi con người có nhu cầu được là chính mình). Với văn học, cái tôi không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của mỗi nhà văn.
- Trong thể loại tuỳ bút, bút kí, cái tôi của người viết trở thành một hình tượng trung tâm và xuất hiện trực tiếp thành nhân vật tôi. Nếu trong truyện ngắn, nhân vật tôi là hình tượng hư cấu thì trong kí, nhân vật tôi đồng nhất với tác giả. Sự hấp dẫn của thể loại này, xét đến cùng là là sự hấp dẫn của cái tôi tác giả.
Đặc điểm của cái tôi Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đoạn trích Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là:
*Một cái tôi uyên bác
- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống phong phú. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn hiểu biết từ nhiều phương diện khác nhau như địa lí, lịch sử, văn hoá (thơ ca, âm nhạc, phong tục tập quán…) để cảm nhận vẻ đẹp của dòng sông Hương.
- Thể hiện ở vốn tri thức, vốn sống sâu sắc. Chẳng hạn, khám phá phương diện địa lí của dòng sông xứ Huế, tác giả đã tìm hiểu tận thượng nguồn của nó trong mối quan hệ với dãy Trường Sơn; khám phá vẻ đẹp lịch sử của con sông, tác giả đã tìm hiểu nó từ thời Hùng Vương, thời Nguyễn Trãi, thời Quang Trung đến thời hiện đại.
*Một cái tôi tài hoa, tinh tế, lãng mạn
- Thể hiện ở cái nhìn mang tính phát hiện về một dòng sông vốn đã quen thuộc với tất cả mọi người. Do tìm hiểu sông Hương từ cội nguồn của nó giữa lòng Trường Sơn, do gắn sông Hương với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra vẻ đẹp hùng tráng của dòng sông vốn chỉ được biết là dòng sông thơ mộng.
- Thể hiện ở khả năng quan sát tinh tường, sức tưởng tượng và liên tưởng phong phú.
+ Sông Hương được nhìn nhận bằng cặp mắt của nghệ sĩ giàu cảm xúc nên hiện lên với vẻ đẹp phong phú: khi mãnh liệt và sâu lắng, khi phóng khoáng man dại mà bình thản, khi trầm mặc cổ kính, khi chỉ là mặt hồ yên tĩnh…
+ Sông Hương được hình dung như người con gái, người phụ nữ với nhiều dáng vẻ, cung bậc cảm xúc khác nhau.
- Thể hiện ở tài năng nghệ thuật của nhà văn khi miêu tả vẻ đẹp của sông Hương.
+ Liên tưởng phóng túng, tài hoa (qua sử dụng các biện pháp tu từ).
+ Vốn ngôn ngữ phong phú.
+ Câu văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu nhạc điệu, giàu chất thơ.
*Một cái tôi có tình yêu sông Hương, yêu xứ Huế tha thiết, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước.
- Tác giả miêu tả vẻ đẹp sông Hương bằng một tình yêu say đắm, miêu tả sông Hương bằng nhiều phương diện, nhiều góc độ, hiểu nỗi niềm dòng sông trong dòng chảy, khúc cua của nó; đề xuất cho người đọc cách cảm nhận về sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành tri kỉ của sông Hương.
- Từ tình yêu sông Hương, tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người, văn hoá Huế tha thiết.
- Trách nhiệm của một công dân với đất nước khiến Hoàng Phủ Ngọc Tường lật từng trang sử, giở từng trang địa lí, tìm hiểu từng phong tục để viết về sông Hương, từ đó bài kí giúp người đọc hiểu và yêu sông Hương hơn.
→ Cái tôi của nhà văn trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? có thể đồng nhất với con người Hoàng Phủ Ngọc Tường: uyên bác, tài hoa và tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước. Qua cái tôi của nhà văn ta hiểu rõ hơn nét riêng trong phong cách nghệ thuật Hoàng Phủ Ngọc Tường: lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
c. Đoạn trích được mở đầu bằng một nhận xét mang đậm tính chủ quan về dòng sông Hương: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ có sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nhà văn không dừng lại ở việc ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành với vẻ đẹp sang trọng, cổ kính của sông Hương trong thành phố Huế, ông khao khát ngược dòng không gian, tìm về cội nguồn của dòng sông nơi đại ngàn để khám phá những vẻ đẹp bí ẩn, những sức mạnh tiềm tàng được đóng kín trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông trước khi nó về với Huế. Hình ảnh so sánh “bản trường ca của rừng già” khiến sông Hương hiện ra với chiều dài, chiều rộng bao la và dòng chảy mãnh liệt trong sự ngưỡng mộ và trân trọng của nhà văn. Phép điệp cấu trúc cùng những động từ giàu sắc thái biểu cảm như tái hiện âm hưởng hùng tráng, mạnh mẽ của con sông giữa những cánh rừng đại ngàn. Những hình ảnh đối lập làm bật lên những vẻ đẹp đa dạng, độc đáo của sông Hương khúc thượng nguồn.
Những cô gái bô-hê-miêng xinh đẹp và bí ẩn với tính cách mạnh mẽ, phóng túng, ưa tự do, ca hát, nhảy múa đã được gán cho dòng chảy hoang dã khiến cho sông Hương khúc thượng nguồn càng trở nên quyến rũ, đắm say. Sự dịu dàng như một cái bến bình yên sau những thác ghềnh, sóng gió Nhà văn lý giải sự tương phản của sông Hương ở hai khúc thượng lưu và hạ lưu không phải bằng những kiến thức địa lý đơn thuần mà còn bằng cái nhìn suy tư, thấm đẫm tình yêu. Với cách nhìn ấy, sông Hương trong thành Huế vẫn sẽ mang vẻ đẹp bình lặng nhưng không tẻ nhạt, đơn điệu mà thâm trầm, sâu sắc. Đó là vẻ đẹp kín đáo của con người tuyệt đối không muốn bộc lộ cái quá khứ của nửa cuộc đời đầu oanh liệt đã vĩnh viễn ở lại với những cánh rừng đại ngàn. “… hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng”.
Trong cái nhìn tình tứ và lãng mạn của nhà văn, toàn bộ cuộc hành trình của dòng sông thượng nguồn về tới Huế giống như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của một cô gái đẹp trong câu chuyện cổ tích lãng mạn về tình yêu. Trước khi trở thành người chung thủy và dịu dàng như cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và thử thách với những núi Ngọc Trản, những đồi Tam Thai, Lựu Bảo, Thiên Mụ…, nhưng chính trong thủy trình gian truân ấy, qua cách miêu tả hài hòa và cái nhìn tình tứ của nhà văn, sông Hương lại có cơ hội phô khoe tất cả những vẻ đẹp của mình, từ những đường cong tuyệt mĩ trên thân hình mềm mại, kiều diễm cho đến những âu yếm, nồng nàn trong tâm hồn người con gái đang khao khát, đắm say tìm đến với tình yêu.
Mỗi chặng đường của sông Hương gắn liền với một địa danh cụ thể, thân thuộc của Huế lại được nhà văn miêu tả theo một cách cảm nhận riêng độc đáo khiến hành trình về xuôi của sông Hương không chỉ được tái hiện chân thực theo dòng chảy tự nhiên trên bản đồ địa lí mà còn thấm đượm chất trữ tình khi hình dung đó là một cuộc kiếm tìm bờ bến tình yêu của người con gái đẹp yêu kiều. Sử dụng một loạt các động từ mang sắc thái nhân hóa, nhà văn đã vẽ lên một hành trình sinh động, hấp dẫn của dòng sông. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương hiện ra như một cô gái đẹp mơ màng vừa bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài trong rừng sâu, vươn mình ra khỏi vùng núi thâm u, trầm mặc, bừng thức sức sống trẻ trung và niềm khao khát thanh xuân khi chuyển dòng liên tục, khi vòng đột ngột, khi uốn mình trong những đường cong thật mềm, khi vẽ một hình cung thật tròn, ôm lấy đồi Thiên Mụ, vượt qua vực, đi giữa âm vang, trôi đi giữa hai dãy đồi… Những câu văn dài nối tiếp nhau làm nên dòng chảy miên man của sông Hương, vừa mạnh mẽ với những dư vang của Trường Sơn như còn phảng phất, vừa duyên dáng với những khúc lượn vòng mềm mại, đầy nữ tính. Hành trình của dòng sông để đến với vẻ đẹp bình lặng dịu dàng, trí tuệ cho thấy sự mạnh mẽ của niềm khát khao, của bản lĩnh kiên cường giấu trong vẻ dịu dàng duyên dáng.
Dòng sông trôi chảy giữa những bến bờ của ngoại vi thành Huế, và trong cách cảm nhận độc đáo của nhà văn, dòng sông như được phản chiếu những vẻ đẹp của cảnh sắc đôi bờ sông: sông Hương như cô gái digan hoang dã sau khi ra khỏi những cánh rừng đại ngàn đã tự làm đẹp, làm mới mình trongmàu xanh thẳm của sắc núi Ngọc Trản; hiền dịu lượn quanh giữa những Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo để trở nên mềm như tấm lụa; nhận lấy ánh phản quang của những ngọn đồi sớm mai, trưa vàng, chiều tím để rực rỡ, kiêu sa;thấm vào lòng mình vẻ đẹp u tịch của rừng thông, vẻ đẹp trầm mặc… tỏa ra từ giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa thời Nguyễn trong khu lăng tẩm Vạn Niên đồ sộ; tươi tắn khi gặp mênh mang tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà…cái hư vô tịch mịch của tiếng chuông chùa hòa quyện với chất thơ ấm áp của tiếng gà nơi thôn dã đã đưa dòng sông trôi đi giữa mộng và thực, giữa đạo và trời, như thực, như mơ.
Trả lời:
Trong cái nhìn của hội họa, dòng sông hiện ra đẹp thơ mộng như một bức tranh lụa huyền ảo với những đường nét uốn lượn mềm mại và duyên dáng, những màu sắc hài hòa và bình dị. Trước tiên bức tranh sông Hương hiện ra trong một nét thẳng thực yên tâm khi vào đến thành Huế, cách miêu tả đặc sắc gợi cảm giác thanh thản, bình yên của một dòng sông đã tìm thấy chính mình, tìm thấy tình yêu của mình khi về tới thành phố hình như chỉ dành riêng cho nó, tồn tại vì nó, một thành phố luôn đợi chờ hành trình không mấy dễ dàng của dòng sông thân yêu trở về từ miền thăm thẳm xa xôi của những cánh rừng đại ngàn. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông trở nên gần gũi vô cùng với mảnh đất cố đô và con người xứ Huế.Sau cảm giác bình yên giữa lòng thành phố, dòng sông bắt đầu thể hiện sự duyên dáng quen thuộc của mình trong những nét uốn lượn tình tứ: sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến và trong một liên tưởng độc đáo, lãng mạn của nhà văn, đường cong ấy làm dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng…“vâng”… không nói ra của tình yêu.Qua phép so sánh thật ngọt ngào, dòng sông đã thực sự trở thành người tình dịu dàng, e ấp mà vẫn thật lãng mạn, đắm say của Huế. Bức họa dòng sông tiếp tục hiện ra trong những nét chấm phá về những vườn cau Vĩ Dạ với nắng hàng cau trong trẻo tinh khôi, với lá trúc che ngang e ấp, dịu dàng, với màn sương khói huyền ảo gợi nhớ thi sĩ họ Hàn tài hoa mà bất hạnh…Với niềm hoài cổ của một nhà văn hóa, Hoàng Phủ Ngọc Tường hướng cái nhìn trầm tư và thơ mộng tới những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít, tới ánh lửa thuyền chài lập lòe trong đêm sương – những hình ảnh khiến dòng sông vừa gần gũi với cuộc sống đời thường Đường đẹp thơ mộng và buồn âm u của Trương Kế: giang phong ngư hỏa đối sầu miên (cây phong bên sông cùng ngọn lửa thuyền chài nhìn nhau trong giấc ngủ buồn –Phong kiều dạ bạc). Dòng sông Hương vẫn tiếp tục được vẽ trong hành trình miên man xa dần thành phố, nhưng sau đó đã đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông để gặp lại thành phố lần cuối… Khúc quanh ngập ngừng tình tứ của sông Hương được nhà văn liên tưởng tới nỗi vương vấn… và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu. Nhìn dòng sông trong sắc thái nhân hóa ấy, nhà văn đã cho thấy nỗi vương vấn của tình yêu trong chính lòng mình dành cho sông Hương, cũng cho thấy cái nhìn lãng mạn của cái tôi tài hoa, tài tử, tài tình. Bức tranh sông Hương còn được vẽ bởi một bàn tay nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật phối màu. Đó là màu xanh thẳm của chính dòng sông, màu rực rỡ của trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh trong những đêm hội trên sông, sắc màu lung linh phong phú của cảnh vật bến bờ: từ những mảng phản quang nhiều màu sắc của núi đồi sớm xanh, trưa vàng, chiều tím đến những biển bãi xanh biếc của ngoại ô Kim Long, từ màu thanh khiết nõn nà của chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non đến sặc tối u sầu của vầng cổ thụ, ánh lập lòe xưa cũ của ngọn lửa thuyền chải, rồi lại màu xanh biếc của tre trúc, của cau thôn Vĩ Dạ cùng sắc mơ màng sương khói của Cồn Hến… Sông Hương thực sự là một bức tranh với những nét vẽ huyền ảo, những sắc màu thơ mộng.
Trả lời:
Cảm hứng thẩm mĩ là khả năng rung cảm của con người trước những ấn tượng thẩm mĩ được nhận thức, là sự rung động của tâm hồn con người trải qua quá trình thụ cảm cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, trong cuộc sống.
Cảm hứng thẩm mĩ của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? là sự ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế - con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô.
Nhà văn từng nói rằng chính con sông này đã nuôi mạch máu văn chương trong con người ông, giúp cho mạch máu ấy lan tỏa và sống mãi đến hôm nay: “Những kỷ niệm thời ấu thơ như những đêm nghe ca Huế dù đã cách nay hơn nửa thế kỷ nhưng tôi vẫn không quên. Ngày đó, những đêm ca Huế không sân khấu đèn màu, không micro, người nghe ngồi bệt dưới nền đất để thưởng thức âm nhạc…Những kỷ niệm dung dị đó đã ám ảnh suốt những năm tháng tôi xa sông Hương sau này, để bài ký đầu tiên trong cuộc đời sáng tác của tôi là con sông quê hương”. Ông viết nhiều ký, viết nhiều về Huế, về sông Hương và “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bút ký nổi tiếng nhất của nhà thơ viết về dòng sông này. Trong tác phẩm, nhà văn đã có cái nhìn độc đáo khi nói sông Hương “là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Khi được hỏi: “Trong gia tài sáng tác của mình, ông xếp bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ở vị trí nào?” thì nhà văn đã chia sẻ rằng: “Đây là bút ký dài nhất và tâm huyết nhất của tôi về Huế. Tôi đã mang cả tâm huyết vẽ nên một dòng sông y như nó vốn có. (Dòng sông của văn hóa, lịch sử, huyền thoại…với vẻ đẹp thật của thiên nhiên và có tính nhân văn). Đó là một thứ tài sản tôi muốn gửi lại cho thế hệ mai sau với lời nhắn gửi: sông Hương như một viên ngọc quý mà thiên nhiên đã ban tặng cho Huế…”. Thực vậy, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được coi là bút ký nổi bật trong sự nghiệp văn chương của nhà văn, trong đó có đoạn nhà văn nhìn sông Hương với hình ảnh là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ. Với tâm hồn lãng mạn và một giọng văn đậm chất trữ tình, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đắm say ngắm nhìn dòng sông Hương yêu dấu và nhận ra rằng dòng sông ấy giống như một “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Liên tưởng sáng tạo và độc đáo đó đã khơi gợi trong tâm trí người đọc một hình dung tưởng tượng đến hình ảnh sông Hương mang dáng dấp một người nghệ sĩ tài hoa, yêu kiều đang đắm say trong những bản đàn, điệu nhạc Huế. Người tài nữ ấy đã đánh thức tâm hồn nhà văn, đánh thức những tâm hồn Huế và những tâm hồn yêu Huế hết mực bằng những điệu nhạc êm dịu, mê đắm lòng người.
Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sinh thành và đắp bồi, nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc Huế, đó phải chăng chính là vai trò của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” theo cách nghĩ, cách cảm và cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Những câu văn tiếp theo là lời giãi bày chân thành của nhà văn với những tâm hồn đồng điệu, rằng ông thất vọng nhường nào khi nghĩ đến việc nghe ca Huế giữa ban ngày hay trên sân khấu nhà hát bởi lẽ điệu nhạc, lời ca đượm hồn Huế phải được hát, được nghe trên chính dòng sông ra sinh ra nó. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Phải chăng nhà văn đã dành rất nhiều tâm huyết, tình cảm để đi tìm hiểu về âm nhạc quê hương xứ sở, cùng với một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế thì mới gửi vào trang văn của mình một liên tưởng gợi hình, gợi cảm đến vậy. Nhà văn dẫn đưa tâm hồn người đọc đến với “tiếng nước rơi bán âm”, một âm thanh trong trẻo gợi về một đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng trên dòng sông Hương. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.
Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Bên cạnh hình ảnh là một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya, sông Hương trong cảm nhận của Hoàng Phủ Ngọc Tường có lúc giống như nàng Kiều trong kiệt tác văn học của Nguyễn Du. Trong đoạn trích viết về những hình ảnh này, nhà văn còn nhắc đến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Những âm thanh, nhạc điệu đong đầy xúc cảm ấy lại tiếp tục gợi nhắc về “Tứ đại cảnh” – bản nhạc cổ Huế, theo tương truyền là do vua Tự Đức sáng tác.
Mảnh đất Huế thơ ngày nay được nhiều người biết đến và lỡ yêu, lỡ thương bởi nhiều nét đẹp trong nó, nào là vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, nét đẹp tâm hồn Huế và cả những nét đẹp văn hóa Huế. Đâu phải mấy ai cũng nhận ra rằng, những nét đẹp văn hóa ấy đã được ươm mầm, vun đắp từ “dòng phù sa mượt mà” của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” – theo như cách nói của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Trả lời:
Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bị tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.
Hình tượng sông Hương hiện lên trong tác phẩm càng khiến cho em yêu thêm dòng sông và muốn được đến thăm thú, nhìn ngắm vẻ đẹp của dòng sông. Đó chính là thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
*Bài tập sáng tạo
Sáng tác một bài thơ, vẽ một bức tranh,... về hình tượng sông Hương (hoặc về sông núi quê hương của bạn).
Bài tham khảo
Trên dòng sông Hương
Đến Huế anh sẽ làm vua
Em làm ái thiếp cho vừa một đôi
Thuyền rồng hai đứa dạo chơi
Sông Hương xanh biếc núi ngồi thông reo.
Hoàng hôn buông tím miền yêu
Vua quên cả buổi thiết triều hôm nay
Tiếng chuông Thiên Mụ đâu đây
Giật mình tỉnh mộng gió lay mạn thuyền