Tiếng hát con tàu
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Chế Lan Viên ( 1920-1989) tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan.
- Quê quán: Cam An - Cam Lộ - Quảng Trị. Từ năm 1927, gia đình ông chuyển vào An Nhơn, Bình Định.
- Sau khi tốt nghiệp Trung học, Chế Lan Viên đi dạy học ở trường tư, làm báo ở Sài Gòn và các tỉnh miền Trung.
- Ông tham gia cách mạng tháng Tám ở Quy Nhơn .
- Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông hoạt động văn nghệ và báo chí ở Liên khu IV và chiến trường Bình - Trị - Thiên.
- Sau năm 1954, ông về Hà Nội tiếp tục hoạt động văn học, nhiều năm tham gia lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam.
- Sau 1975, ông vào sống ở Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục hoạt động văn học.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
- Thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường - Chim báo bão (1967),Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973),...
- Tiểu luận - phê bình: Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952), Nói chuyện thơ văn (1960), Vào nghề (1962), Phê bình văn học (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971),...
b. Phong cách nghệ thuật
- Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ", thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945 - 1958).
- Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời.”
- Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng và có những thay đổi rõ rệt.
- Trong thời kì 1960 - 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.
- Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống".
=> Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lý. Chất suy tưởng triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa. Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- In trong tập Ánh sáng và phù sa, viết nhân cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc những năm 1958-1960.
b. Bố cục (3 đoạn)
- Đoạn 1 (khổ 1,2): Sự trăn trở và lời mời gọi lên đường.
- Đoạn (khổ 3 đến khổ 11): Khát vọng về với nhân dân.
- Đoạn 3 (còn lại): Khúc hát lên đường.
c. Ý nghĩa nhan đề
- Con tàu: thời điểm sáng tác bài thơ chưa có tuyến đường sắt lên Tây Bắc, hình ảnh con tàu ở đây ý nghĩa biểu tượng cho khát vọng lên đường, khát vọng về với nhân dân, hòa nhập vào cuộc sống lớn của đất nước.
- Tây Bắc: nghĩa đen chỉ mảnh đất miền tây Bắc Bộ của nước ta. Nghĩa biểu tượng: chỉ cuộc sống rộng lớn và những miền đất xa xôi còn nhiều khó khăn của Tổ quốc.
=> Ý nghĩa nhan đề "Tiếng hát con tàu": là tiếng hát say mê, hăm hở, lạc quan, phấn chấn của tâm hồn tràn đầy khát vọng, mong mỏi xây dựng đất nước và tìm về với ngọn nguồn sáng tạo thơ ca của thi sĩ.
d. Ý nghĩa bốn câu đề từ
-Tổ quốc vẫy gọi và tâm hồn nghệ sĩ hướng về nhân dân, về cuộc sống sôi nổi đang diễn ra trên mọi miền đất nước. Về với Tây Bắc cũng là về với nhân dân, về với chính mình, về với ngọn nguồn cảm hứng sáng tạo.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Sự trăn trở, giục giã và lời mời gọi lên đường (hai khổ đầu)
- Đoạn thơ mang giọng điệu đối thoại như mời gọi, như sự hối thúc.
- Dường như hình ảnh con tàu là một hình ảnh ẩn dụ nghệ thuật có ý nghĩa tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn của nhân vật trữ tình.
- Tây Bắc – tên gọi cụ thể, chỉ địa danh một vùng đất xa xôi của Tổ quốc.
- Tây Bắc chínhlà cội nguồn cảm hứng của hồn thơ, của sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, lời giục giã lên Tây Bắc cũng là về với chính lòng mình, với những tình cảm trong sáng, nghĩa tình gắn bó sâu nặng với nhân dân và đất nước.
=> Hai khổ thơ đầu cho thấy đặc điểm nghệ thuật thơ của Chế Lan Viên với chất suy tưởng triết lí, do gắn bó với thực tế cuộc sống nên nó rất thể, rất thực.
b. Khát vọng và niềm hạnh phúc được trở về với nhân dân cùng những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình (chín khổ tiếp)
- Khung cảnh thiên nhiên, con người Tây Bắc nay đã đổi thay.
- Đến với Tây Bắc là đến vùng đất thân yêu của tâm hồn mình, là cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu.
- Kỉ niệm về đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được tác giả nhắc lại qua hình ảnh của những con người cụ thể (người anh du kích, bà mẹ tóc bạc, người em nhỏ liên lạc…).
- Sự cưu mang, đùm bọc, tình yêu thương chân thành của người dân Tây Bắc như đã tiếp thêm sức mạnh cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại những kỉ niệm sâu sắc không thể nào quên.
- Thể hiện được rõ nét về niềm khao khát mãnh liệt và nỉềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân.
- Từ những kỉ nỉệm ân tình với đồng bào vùng cao Tây Bắc, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ trải nghiệm của chính mình:
+ Nói về tình yêu nhưng tác giả lại hướng tới cắt nghĩa, lí giải để làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ. Chính phép màu của tình yêu đã biến những miền đất xa xôi trở thành thân thiết như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta.
+ Nói đến tình yêu và nỗi nhớ, Chế Lan Viên không ngại ngần diễn tả thật hóm hỉnh và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu bằng những hình ảnh rực rỡ sắc màu và đậm đà phong vị vùng cao: như đông về nhớ rét, như cánh kiến hoa vàng,...
- Nhà thơ đã rất sáng tạo khi nói về nhân dân, về tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ có tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ biến đổi linh hoạt, vừa sôi nổi vừa da diết, lắng sâu.
c. Khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê (bốn khổ cuối)
- Tiếng gọi của đất nước, của nhân dân, của đời sống đã thành sự thôi thúc mãnh liệt, thành lời giục giã của chính lòng mình “Đất nước gọi hay là lòng ta gọi?” nên càng không thể chần chừ và nó trở thành nỗi khát khao không thể cưỡng lại được “Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga / Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng." Nỗi khát khao ấy đã thúc giục tâm hồn nhà thơ trở về với Tây Bắc vì đó là sự trở về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo:
“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”
- Âm hưởng của câu thơ lôi cuốn trùng điệp thể hiện sự say mê, niềm tin tưởng của nhà thơ khi trở về với nhân dân, với Tổ quốc “Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng, tiếng hát / Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.”
d. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện khát vọng, niềm hân hoan trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, đất nước, cũng là tìm thấy nguồn nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo nghệ thuật cho hồn thơ.
e. Giá trị nghê thuật
- Nghệ thuật so sánh, điệp từ, điệp ngữ -> nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong kháng chiến.
- Thơ giàu chất suy tưởng triết lí.
III. Phân tích tác phẩm
a)Dàn ý
A, Mở bài:
* Giới thiệu vài nét vể tác giả:
– Chế Lan Viên
– Tập thơ “Điêu tàn” xuất bản năm 1937 đã khẳng định Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu của trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám 1945.
– Ông hang hái tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp. Từ đó, ông đã làm một cuộc hoá thân trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác để hoà hợp với nhân dân, đất nước.
– Bài thơ “Tiếng hát con tàu” ra đời ở hoàn cảnh cụ thể là thời kì phong trào nhân dân miền xuôi lên miền núi khai hoang, xây dựng và phát triển kinh tế. Bài thơ vừa là tiếng hát say mê của một tâm hồn thoát khỏi cái tôi nhỏ bé để đến với cái ta rộng lớn là nhân dân, đất nước; vừa là nỗi nhớ thiết tha và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ đối với Tây Bắc – mảnh đất nặng nghĩa nặng tình.
B, Thân bài:
* Ý nghĩa của lời để từ:
Ngay mới chỉ trong lời để từ, tác giả đã thể hiện tư tưởng chủ đề bài thơ và tình cảm của mình. Câu hỏi tu từ: Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây Bắc…chính là lời lòng tự hỏi lòng, chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực trong tâm trạng nhà thơ nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử đó.
* Hai khổ thơ đầu là lời giục giã vớỉ những câu hỏi ngày càng thôi thúc.
– Dường như hình ảnh con tàu là một hình ảnh là ẩn dụ nghệ thuật có ý nghĩa tượng trưng cho ước mơ, khát vọng vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn của nhân vật trữ tình. Nhà thơ đã khéo léo ví von tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực về với nhân dân, đất nước.
– Tây Bắc – tên gọi cụ thể chỉ địa danh một vùng đất xa xôi của Tổ quốc nhưng lại còn là một biểu tượng cuộc sống lớn lao của nhân dân và đất nước.
-Tây Bắc chính là cội nguồn cảm hứng của hồn thơ, của sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, lời giục giã lên Tây Bắc cũng là về với chính lòng mình, với những tinh cảm trong sáng, nghĩa tình gắn bó sâu nặng với nhân dân và đất nước.
* Chín khổ thơ tiếp theo là một mạch ngàm của niềm hạnh phúc và khao khát về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong những năm kháng chiến.
– Khung cảnh thiên nhiên, con người Tây Bắc nay đã đổi thay.
– Đến với Tây Bắc là đến vùng đất thân yêu của tâm hồn mình, là làm cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu.
– Kĩ niệm về đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được tác giả nhắc lại qua hình ảnh của những con người cụ thể (người anh du kích, bà mẹ tóc bạc, người em nhỏ liên lạc…).
– Sự cưu mang, đùm bọc, tình yêu thương chân thành của những người dân thân thiện Tây Bắc như đã tiếp thêm sức mạnh cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và để lại những kĩ niệm sâu sắc không thể nào quên.
–Thể hiện được rõ nét về niềm khao khát mãnh liệt và nỉềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi trở về với nhân dân.
Từ những kỉ nỉệm ân tình với đồng bào vùng cao Tây Bắc, tác giả đã nâng lên thành những suy ngẫm, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ trải nghiệm của chính mình.
– Nóỉ về tình yêu nhưng tác giả lại hướng tới sự cắt nghĩa, lí giải để làm bừng sáng ý nghĩa của cả đoạn thơ. Chế Lan Viên như đã thật hay về phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa xôi trở thành thân thiết như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta.
– Nói đến tình yêu và nỗi nhớ, Chế Lan Viên không ngại ngần đã diễn tả thật hóm hỉnh và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu bằng những hình ảnh rực rỡ sắc màu và đậm đà phong vị vùng cao.
– Với nghệ thuật đặc sắc của nhà thơ rất sáng tạo khi nói về nhân dân, về tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Các ẩn dụ nghệ thuật đều có tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ biến đổi linh hoạt, vừa sôi nổi vừa da diết, lắng sâu.
* Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đưòng sôi nổi, tin tưởng và say mê.
– Tiếng gọi của đất nước, của nhân dân, của đời sống đã thành sự thồi thúc mãnh liệt, thành lời giục giã của chính lòng mình, thành nỗi khát khao nóng bỏng.
– Những lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định quyết tâm lên đường.
– Nhà thơ mượn hình ảnh tượng trưng trong ca dao xưa để biểu đạt vẻ đẹp cao quý của tâm hồn.
– Bài học triết lí nhân sinh và quan điểm nghệ thuật được tác giả đặt ra trong những khổ thơ cuối: Hiện thực cuộc sống là mạch nguồn vô tận của cảm hứng sáng tác. Văn chương không thể tách rời hiện thực. Hiện thực là cơ sở phát sinh cảm hứng trữ tình cách mạng…
C, Kết bài:
– Có thể nói thơ Chế Lan Viên giàu chất trí tuệ và đậm đà tính trữ tình.
–Phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên – nhà thơ trữ tình cách mạng nổi tiếng trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
a)Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu – Bài văn mẫu số 1
Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng trước Cách mạng tháng Tám với tập thơ “Điêu tàn”. Đi theo cách mạng rồi đi kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên gần như im lặng. Hoà bình lập lại, ông mới có thơ hay. Bài thơ “Tiếng hát con tàu” rút trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa” là một bài thơ thời sự đáp lại lời kêu gọi của Tổ quốc đi khai hoang Tây Bắc.
Viết về một nhiệm vụ lịch sử, nhưng nhà thơ không thể hiện một cách chung chung mà viết với một xúc cảm chân thành và cuồng nhiệt. Một vùng đất tươi đẹp và anh hùng của Tổ quốc hiện lên thành hình tượng thơ lấp lánh ánh sáng của trí tuệ. Tâm hồn của thi sĩ đã hoá thành con tàu mộng tưởng, trở về với nhân dân mà cũng là trở về với chính lòng mình.
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Chế Lan Viên mở đầu bài thơ bằng lối tự vẫn bộc lộ sự trăn trở của nhà thơ trước một nhiệm vụ trọng đại của đất nước:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”
Chế Lan Viên nhạy bén với những nhiệm vụ chính trị của Đảng và của dân tộc. Tác giả đã chuyển nhiệm vụ chung (khai hoang Tây Bắc) thành nhiệm vụ riêng của từng con người, sâu hơn nữa là nhiệm vụ của “tâm hồn ta”. “Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu?” Đây là con tàu của mộng tưởng (chưa hề có đường tàu lên Tây Bắc), biểu tượng này thích hợp với hình ảnh ra đi, gợi những ước mơ lãng mạn:
“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô, tàu đói những vành trăng”
Tác giả còn thôi thúc người ra đi khai hoang Tây Bắc chẳng những vì Tây Bắc mà còn vì mở lối nhở hẹp của đời sống, mở lối cho sáng tạo, cho thơ:
“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”.
Nhà thơ đã biến cuộc ra đi thành cuộc trở về. Trở về “nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất”. Và tha thiết hơn nữa “cho con về gặp lại Mẹ yêu thương”. Và thiêng liêng hơn nữa:
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Những so sánh bất ngờ, những chi tiết bất chợt khiến cho dòng suy nghĩ không khô khan mà lung linh, biến hoá. Nhà thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm sâu sắc trong kháng chiến với nhân dân Tây Bắc. Những kỉ niệm hiện lên như một cuộn phim.
Hình ảnh của nhân dân được nhà thơ gọi một cách thân thiết, ruột rà. “Con nhớ anh con, người anh du kích”, “Con nhớ em con, thằng em liên lạc”, “Con nhớ mế, lửa hồng soi tóc bạc”. Qua mỗi chi tiết đầy xúc động, nhà thơ muốn nói với chúng ta nhân dân Tây Bắc anh hùng mà tình nghĩa. Rồi Chế Lan Viên dẫn đến triết lí. Hiện thực cũng chỉ là cái cớ để cho nhà thơ triết lí:
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Người đọc thán phục Chế Lan Viên vì đã phát hiện ra được quy luật của tình cảm, của đời sống tâm hồn con người. Nhà thơ dẫn dắt người đọc đến triết lí bằng nhạc và bằng hình: “Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ”. Điệp từ “nhớ” vừa diễn tả sự da diết của tình cảm, vừa tăng cường nhạc điệu cho câu thơ. Về hình hoạ, trong những câu thơ trên, nhà thơ áp sát ống kính vào từng khuôn mặt thân thương, ruột rà để biểu dương.
Đến đây, nhà thơ lùi ống kính ra xa để thu hình ảnh của núi rừng Tây Bắc với những “bản sương giăng”, với những “đèo mây phủ”, hình ảnh huyền ảo của núi rừng Tây Bắc mà cũng là hình ảnh sương khói của hoài niệm. Và nhà thơ nói với lòng mình mà như tìm sự đồng cảm của mọi người: “Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?”. Câu thơ của Chế Lan Viên gợi nhớ mấy câu thơ của Hồng Nguyên:
“Chúng tôi đi
Mang cuộc đời lưu động
Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng
Đã nghĩ lại rất nhiều nhà dân chúng
Tôi nhớ bờ tre gió lộng
Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau”
(Nhớ)
Nhưng Chế Lan Viên không dẫn tới tự sự mà dẫn đến triết lí:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Hai câu thơ được kết cấu theo lối đối (Khi ta ở - Khi ta đi) đã diễn tả hai trạng thái của tâm hồn con người và những điệp từ, điệp ngữ tạo âm hưởng cho ý thơ triết lí vốn dễ khô khan. Từ sự chiêm nghiệm của chính mình, tác giả đã phát hiện một quy luật về tình cảm có giá trị khái quát.
Nhà thơ đã nói hộ cho chúng ta về sự gắn bó giữa con người với quê hương xứ sở, với những miền đất xa lạ mà chúng ta đã từng sống. Cái cụ thể là “đất” đã hoá thành cái trừu tượng là “tâm hồn”. Hai câu thơ rất là Chế Lan Viên! Từ triết lí, nhà thơ bỗng chuyển sang diễn tả những rung động cụ thể, riêng tư. Tứ thơ chuyển lạ, nhưng không gãy đổ vì vẫn liền mạch tư duy:
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.”
Khổ thơ như một rẽ ngoặt đường rừng bày ra cảnh quan mới lạ. Nhưng rồi ta vẫn nhận ra giọng điệu của Chế Lan Viên. Vẫn là từ xúc cảm, hình ảnh cụ thể dẫn đến những suy ngẫm triết luận. Lại tô đậm thêm cảm xúc riêng tư nên câu thơ trở nên xôn xao. “Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét”, những so sánh rất lạ, lấp lánh chất trí tuệ chứ không phải tình cảm thuần khiết.
Xét đến cùng thì cũng không phải là nỗi niềm riêng, dù nhà thơ có nói thật tha thiết “Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng”; mà là “riêng chung” nói như Xuân Diệu. Cái lấp lánh của màu sắc “cánh kiến hoa vàng” như “chim rừng lông trở biếc” là cái lấp lánh của trí tuệ. Tác giả như phát hiện ra mỗi quan hệ khăng khít của sự vật như mùa đông với cái rét, như mùa xuân với “chim rừng lông trở biếc”. Và cái da diết của nhạc điệu, của hình ảnh, của màu sắc để sửa soạn cho một triết lí mới: “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”.
Mỗi người đều tự cảm nhận, thấm thía với triết lí. Và như thế là tác giả đã đạt đến chiều sâu của chủ đề “Tiếng hát con tàu”. Rồi nhà thơ lại giục giã lên đường xây dựng quê hương Tây Bắc. Tất cả những hồi tưởng, những hoài niệm, những triết luận là để nhằm đến việc thực hiện nhiệm vụ lịch sử này:
“Đất nước gọi hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”
Xây dựng quê hương Tây Bắc cho “mẹ”, cho “em” thì còn ai là không tha thiết, không nhiệt tình? Riêng đối với nhà thơ thì Tây Bắc còn là nguồn cảm hứng, nguồn sáng tạo, nguồn thơ, là giá trị tinh thần thiêng liêng nên cuộc “trở về” có ý nghĩa biết bao!
“Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.”
Tác giả kết thúc “Tiếng hát con tàu” bằng những ý tưởng lãng mạn thật đẹp và tình yêu nồng nàn (rộng là tình yêu cuộc sống và hẹp là yêu em):
“(…) Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”
Chế Lan Viên khi tâm hồn đã đổi mới, nhà thơ nhạy cảm với những nhiệm vụ của cách mạng. Khi đất nước có nhu cầu mở mang Tây Bắc, Chế Lan Viên đã có thơ ứng chiến và đáng quý là đã có thơ hay, vượt lên trên thơ minh hoạ tầm thường. Chất trí tuệ mẫn tiệp vốn có của ông lại được bồi đắp thêm những tình cảm mới mẻ, cách mạng khiến cho “Tiếng hát con tàu” có sức hấp dẫn.
Chỉ tiếc là một tài năng ngôn ngữ siêu phàm như ông mà lại lạm dụng những từ có ý nghĩa thiêng liêng, như từ “mẹ” chẳng hạn, khiến người đọc thoáng qua chút hoài nghi về cảm xúc chân thật của nhà thơ. Một thời, biết bao học sinh, sinh viên, trí thức đã mê thơ ông, say sưa với những phát hiện triết lí trong thơ ông:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn.
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu – Bài văn mẫu số 2
Tiếng hát con tàu được Chế Lan Viên viết năm 1960 và in trong tập Ánh sáng và phù sa. Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm kháng chiến thắng lợi, vừa mới trải qua thời kì khôi phục kinh tế, bắt đầu bước vào kế hoạch năm năm lần thứ nhất.
Hoàn cảnh đặc biệt đó đã làm nảy sinh trong giới văn nghệ sĩ một ý thức nghệ thuật gắn liền với công cuộc xây dựng cuộc sống mới của nhân dân, tự nguyện đi đến những vùng miền khó khăn của đất nước, hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân bởi chỉ có như vậy mới tìm lại niềm hạnh phúc, mới tìm thấy ngọn nguồn cảm xúc sáng tạo nghệ thuật.
Tiếng hát con tàu không đơn thuần chỉ là một bài thơ lấy sự kiện chính trị làm điểm xuất phát và tập trung thể hiện tư tưởng chủ đạo là cổ vũ động viên thanh niên lên đường xây dựng Tổ quốc. Bài thơ còn là tấm lòng của những người gắn bó sâu nặng nghĩa tình với nhân dân, với đất nước. Lời mời gọi lên Tây Bắc trở thành lời giục giã, lời mời gọi những tâm hồn hãy đến với đời sống cần lao và rộng lớn của nhân dân. Từ một vấn đề thời sự, bài thơ đã mở ra những suy tưởng về cuộc sống, về nghệ thuật .
Nhan đề “Tiếng hát con tàu” của bài thơ mang tính biểu tượng bởi thực tế chưa hề có đường tàu và con tàu lên Tây Bắc. Hình tượng con tàu trong bốn câu thơ đề từ là biểu tượng cho tâm hồn nhà thơ đang khát khao lên đường, vượt ra khỏi cuộc sống chật hẹp, quẩn quanh đi đến với cuộc đời rộng lớn. Tây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể chỉ địa danh một miền đất xa xôi của Tổ quốc, còn là một biểu tượng của cuộc sống lớn của nhân dân và đất nước, là cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Bài thơ mở đầu bằng một lời mời gọi thiết tha:
Chuyến tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Ta bắt gặp chủ thể trữ tình tự phân thân để đối thoại với chính mình với hàng loạt những câu hỏi nâng cao dần cấp độ để bộc lộ khát vọng lên đường. Không chỉ là lời hối thúc bản thân, câu thơ còn là lời động viên, thuyết phục mọi người đi đến với những miền đất lạ xa xôi, hòa nhập vào cuộc sống rộng lớn của nhân dân. Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người.
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vầng trăng.
Nhà thơ nói với người khác và cũng là tự nhủ với chính lòng mình. Cuộc kháng chiến trường kì gian khổ đã kết thúc thắng lợi, đất nước bước vào công cuộc tái thiết, xây dựng cuộc sống mới đang rất cần sự đóng góp của mỗi người. Cuộc sống lớn đó là ngọn nguồn của mọi sáng tạo nghệ thuật. Song nghệ thuật không thể nảy sinh khi người nghệ sĩ không mở rộng lòng mình đón nhận tất cả những vang vọng của cuộc đời.
Từ sự chiêm nghiệm về cuộc đời thơ của chính mình, Chế Lan Viên đã đưa ra những lời khuyên đầy tâm huyết: hãy đi ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình mà hòa nhập với mọi người, hãy vượt ra khỏi chân trời của cái tôi nhỏ bé để đến với chân trời của tất cả. Đi theo con đường ấy, có thể tìm kiếm được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hồn của chính mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân:
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia
Chính vì lẽ đó mà tâm hồn thơ Chế lan Viên muốn hóa thân thành con tàu tâm tưởng, khao khát lên đường, hăm hở say sưa, háo hức trong hành trình trở về với cuộc đời rộng lớn, về với nhân dân. Khát vọng đến với cuộc sống rộng lớn, đến với nhân dân trở thành cảm hứng, tình cảm chân thành của nhà thơ. Khát vọng ấy đã một lần vang lên trong thơ ông:
Ôi chim én có bay không, chim én?
Đến những đảo xa, đến những đảo mờ
Ở đâu chưa đi thì lòng sẽ đến
Lúc trở về, lòng ngậm những cành thơ.
Trong bài thơ Tiếng hát con tàu, khát vọng lên đường ấy mỗi lúc càng được bộc lộ cụ thể hơn, say mê hơn và rạo rực hơn: “Khi lòng ta đã hóa những con tàu”, “Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội. Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”, “Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng” … Khát vọng ấy càng trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết khi có sự gặp gỡ giữa đòi hỏi của nhân dân, đất nước với nhu cầu tình cảm của nhà thơ “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi”. Ở đây tiếng gọi của cuộc sống lớn, của nhân dân, đất nước đã thực sự trở thành sự thôi thúc bên trong của chính nhà thơ
Ai đó đã từng nói: “Ra đi là trở về”. Lên Tây Bắc cũng chính là để nhà thơ trở về với mảnh đất anh hùng đã từng gắn bó máu thịt với cuộc đời ông, để chứng kiến những thành quả bước đầu của thành quả cách mạng:
Trên Tây Bắc ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân
Máu rỏ xuống và cây mọc lên, đơm hoa kết trái. Hai ý thơ đối nghịch cho ta thấy sức sống vĩ đại của miền Tây Bắc: từ trong cái chết, sự sống vẫn tiếp tục nẩy mầm xanh. Động từ “rỏ” không gây ấn tượng mạnh nhưng lại có sức lan tỏa sâu trong lòng người đọc. Máu “rỏ” chứ không phải là máu tuôn, máu xối. Nó cho thấy sự hi sinh thầm lặng nhưng bền bỉ, lâu dài của người dân Tây Bắc nói riêng và của người Việt Nam nói chung. Mất mát hi sinh là lớn nhưng nó không đủ sức để thiêu chột đi ý chí và khát vọng.
Chỉ cần giữ được niềm tin vào cuộc sống thì cuộc đời này vẫn đáng yêu, đáng sống và nó lại thôi thúc con người mang khát khao cống hiến. Bao trùm trong Tiếng hát con tàu là niềm khát khao mãnh liệt và niềm hạnh phúc lớn lao của nhà thơ khi được trở về với nhân dân:
Con gặp lại nhân dân hư nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa
Thể hiện niềm hạnh phúc lớn lao đó, tác giả sử dụng liên tiếp những hình ảnh so sánh. Những hình ảnh này vừa có vẻ đẹp thơ mộng, mượt mà: “nai về suối cũ, cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa”, vừa có sự hoà hợp giữa nhu cầu và khát vọng của bản thân với hiện thực: “trẻ thơ đói lòng gặp sữa, chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa” đã nhấn mạnh niềm hạnh phúc tột độ và ý nghĩa sâu xa của việc trở về với nhân dân.
Đối với nhà thơ, được trở về với nhân dân không chỉ là niềm vui, niềm khát khao mà còn là một lẽ tự nhiên, phù hợp với qui luật. Về với nhân dân là về với ngọn nguồn bất tận của sự sống, về với những gì thân thiết và sâu nặng của lòng mình.
Khát vọng được trở về với nhân dân được tác giả thể hiện thông qua những cảm xúc chân thành, những tình cảm cụ thể, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với những con người tiêu biểu cho sự hi sinh, cưu mang đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng nữa mà hiện ra qua những hình ảnh, những con người cụ thể, gần gũi, xiết bao thương mến.
Nhân dân, đó là “anh con, người anh du kích” với “chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn, chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”; là “em con thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ”; là bà mế già “lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức mọt mùa dài” … Với những điệp ngữ: “con nhớ anh con”, “con nhớ em con”, “con nhớ mế” … , bài thơ chồng chất, ăm ắp những kỉ niệm được gọi ra từ niềm hoài niệm về nhân dân của nhà thơ.
Cách xưng hô của chủ thể trữ tình bộc lộ một tình cảm thân tình, ruột thịt với những con người đã từng gắn bó mật thiết với mình trong những năm kháng chiến. Đọc những câu thơ này, có thể thấy được sự sự rung động vừa sâu sắc, tha thiết, vừa say mê, mãnh liệt của một hồn thơ trong những giây phút bừng sáng của sự giác ngộ một chân lí đời sống và cũng là chân lí của nghệ thuật: phải trở về thuỷ chung gắn bó với nhân dân. Tổ quốc và nhân dân đã hồi sinh cho một hồn thơ đã từng một thời tự giam mình trong cái tôi cô đơn, đóng khép.
Từ những kỉ niệm ân tình, những hoài niệm về nhân dân, tác giả đã nâng lên thành những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra từ những trải nghiệm của chính mình:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu đương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn!
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.
Khổ thơ là tấm lòng nhà thơ trải dài theo nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy day dứt trong tâm trí nhà thơ. Đó là nỗi nhớ về những bản làng điệp trùng mây núi. Nhà thơ đã đi qua nhiều nơi, nhưng nơi nào chẳng để thương để nhớ trong tâm hồn nhà thơ, để rồi “khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn”.
Nói đến tình yêu trong nỗi nhớ, câu thơ Chế Lan Viên lấp lánh rực rỡ những màu sắc, bồi hồi, xôn xao những xúc động. Chế Lan Viên đã diễn tả thật hóm hỉnh, độc đáo và sâu sắc mối quan hệ khăng khít, sự gắn bó chặt chẽ giữa những kẻ đang yêu. Nhưng tình yêu ở đây không dừng lại trong giới hạn tình yêu đôi lứa mà còn là sự kết tinh của những tình cảm sâu nặng với quê hương đất nước.
Nói về tình yêu nhưng lại hướng tới sự cắt nghĩa, lí giải làm bừng sáng cả đoạn thơ. Chế Lan Viên đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất lạ trở thành thân thiết như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta. Câu thơ mang đậm chất triết lí nhưng triết lí đó được khơi nguồn từ tình cảm, từ cảm xúc chân thành nên không khô khan, vẫn tự nhiên và dung dị. Đó là những câu thơ hay nhất của đời thơ Chế Lan Viên.
Tiếng hát con tàu là bài thơ hay của Chế Lan Viên đã góp phần làm đẹp thêm bộ phận thơ viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ thể hiện một cái nhìn mới của nhà thơ trước cuộc đời, trước con người. Nhưng có lẽ điều cô đọng lại trong tác phẩm là những suy tư mang đậm màu sắc triết lí, lắng sâu trong tâm hồn người đọc những rung động trước tình cảm gắn bó của nhà thơ với nhân dân, với đất nước. Và cũng chính vì lẽ đó mà mỗi người nhận thức riêng cho mình một con đường đi tới để được hoà mình vào cuộc sống mới, để được sống trong những cảm xúc chân thành như của chính nhà thơ.
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu – Bài văn mẫu số 3
Chế Lan Viên (1920 - 1989) tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị. Ông sáng tác rất sớm và nổi tiếng với tập thơ Điêu tàn xuất bản năm 1937 và được đánh giá là nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên đã từng viết: Với tôi tất cả như vô nghĩa, Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau, đã từng cầu xin: Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh, Một vì sao trơ trọi cuối trời xa… để ẩn náu, trốn tránh mọi khổ đau, phiền não của cuộc sống.
Sau Cách mạng, trong sự hóa thân kì diệu của đất nước và dân tộc, nhà thơ cũng đã làm một cuộc hóa thân để hòa nhập với cuộc sống xung quanh và cũng là tìm về với chính mình.Hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc phấn khởi bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống hòa bình, xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Năm 1958, Đảng và Nhà nước ta phát động phong trào khai hoang, phát triển kinh tế ở vùng cao. Phong trào này đã được nhân dân miền xuôi, nhất là những địa phương đất chật người đông như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình… hưởng ứng rất nhiệt tình. Thanh niên được coi là lực lượng tiên phong lên Việt Bắc, Tây Bắc vỡ đất khai hoang, xây dựng nông trường, làm thay đổi bộ mặt của chiến khu xưa.
Trong kháng chiến chín năm chống Pháp, nhà thơ Chế Lan Viên thường xuyên đi công tác nên được sống trong sự đùm bọc và tình yêu thương của đồng bào Việt Bắc, Tây Bắc. Tình cảm quý báu đó khơi nguồn thi hứng để tác giả sáng tác bài thơ Tiếng hát con tàu.
Bài thơ vừa là khúc hát say mê, rạo rực của một hồn thơ đã thoát khỏi khung trời chật hẹp của cái tôi nhỏ bé để ra với chân trời rộng lớn của cái ta là nhân dân, đất nước; vừa thể hiện lòng biết ơn sâu nặng và nỗi nhớ da diết của nhà thơ về Tây Bắc - quê hương thứ hai, nơi có những con người đã gắn bó, chia sẻ gian nan, cùng vào sống ra chết với mình trong thời kì chống Pháp.
Tiếng hát con tàu được bố cục theo trình tự diễn biến tâm trạng. Giọng điệu, âm hưởng cũng biến đổi theo mạch tâm trạng. Hai khổ đầu là sự trăn trở và lời mời gọi lên đường. Chín khổ thơ giữa thể hiện khát vọng về với nhân dân, gợi lên những kỉ niệm kháng chiến đầy nghĩa tình với nhấn dân và đất nước. Bốn khổ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, tin tưởng và say mê. Bốn câu thơ đề từ chính là tư tưởng chủ đề bài thơ, đã khái quát suy nghĩ và tình cảm của tác giả:
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu.
Câu hỏi tu từ: Tây Bắc ư? là lời lòng tự hỏi lòng, chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực trong tâm trạng nhà thơ nói riêng và tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử đó. Hai khổ thơ đầu là lời giục giã với những câu hỏi thôi thúc. Nhà thơ chọn hình ảnh con tàu và địa danh Tây Bắc làm biểu tượng nghệ thuật của bài thơ:
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng?
Bạn bè đi xa anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng.
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Nhà thơ ví tâm hồn mình như một con tàu đang mở hết tốc lực trong hành trình tiến lên phía trước mà đích đến là đất nước, là nhân dân vĩ đại và cao cả, là cuộc sống đầy ắp chất liệu và cảm hứng nuôi dưỡng hồn thơ. Tiếng hát con tàu ờ đây là biểu tượng cho khát vọng ra đi, đến với những miền xa xôi, đến với nhân dân, đất nước và cũng còn là đến với những mơ ước, những ngọn nguồn của cảm hứng nghệ thuật.
Ở thời điểm đó chưa có đường tàu lên Tây Bắc, cho nên hình ảnh con tàu trong bài thơ này hoàn toàn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là con tàu trong tâm tưởng chỗ đầy khát vọng hòa hợp với dân tộc, đất nước và niềm tin vào tương lai tươi sáng. Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh thiên nhiên để khơi gợi khát vọng lên đường của mọi người. Khao khát tìm đến những chân trời rộng mở: Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi, Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng. Nhà thơ nói với người khác mà cũng là tự nhủ với chính lòng mình.
Đánh thắng giặc xong, đất nước xây dựng lại rất cần sự đóng góp của mỗi người. Hãy thoát ra khỏi cái tôi chật hẹp mà hòa nhập với mọi người. Đi theo con đường ấy có thể tìm kiếm được nghệ thuật chân chính và gặp được tâm hổn của chính mình trong cuộc sống rộng lớn của nhân dân.
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Chế Lan Viên đã khẳng định về mối liên quan máu thịt giữa văn chương, nghệ thuật với hiện thực cuộc sống, bởi cuộc sống phong phú muôn màu muôn vẻ chính là kho chất liệu, là nguồn cảm hứng vô tận của văn nghệ sĩ. Điều đó cho thấy một nhà thơ Chế Lan Viên hoàn toàn mới mẻ, khác hẳn với Chế Lan Viên - nhà thơ lãng mạn trước Cách mạng bế tắc và tuyệt vọng giữa cuộc đời tù túng, phức tạp.
Tây Bắc, ngoài tên gọi cụ thể của một vùng đất, còn là tiêu biểu cho mọi miền xa xôi của Tổ quốc, nơi có cuộc sống gian lao mà nặng nghĩa nặng tình, nơi đã ghi khắc những kỉ niệm không thể quên của những người đã trải qua cuộc kháng chiến, nơi đang vẫy gọi mọi người đi tới chung sức, chung lòng xây dựng lại quê hương.
Đến với Tây Bắc, mảnh đất nặng nghĩa nặng tình là đến với nhân dân đã chở che, đùm bọc cán bộ, chiến sĩ ta trong suốt cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân Pháp xâm lược. Chính vì lẽ đó, tiếng gọi thôi thúc lên Tây Bắc đồng nghĩa với tiếng gọi về với chính lòng mình, với tâm hồn mình với những tình cảm thiết tha, trong sáng.
Nếu hai khổ thơ đầu là sự trăn trở và lời giục giã mời gọi lên đường thì chín khổ tiếp theo lại là niềm hạnh phúc và khát vọng về với nhân dân, gợi lại những kỉ niệm sâu nặng đầy tình nghĩa trong những năm kháng chiến; xen với những hình ảnh lung linh của hồi tưởng là những chiêm nghiệm, đúc kết trong giọng thơ trầm lắng. Bắt đầu là khung cảnh và con người Tây Bắc nay đã đổi thay:
Trên Tây Bắc! ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân.
Ở khổ thơ này, các hình ảnh cũ và mới đan xen vừa rất sáng tạo, vừa giàu ý nghĩa. Nghĩ về Tây Bắc, những kỉ niệm vui buồn về cảnh vật và con người cứ lớp lớp hiện lên trong tâm tưởng nhà thơ. Sau mười năm xa cách, xưa Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất, Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân. Tất cả những điều đó tạo nên nền tảng vững chắc cho đời sống tinh thần, đời sống tình cảm phong phú của con người. Cao hơn thế, nó trở thành ngọn lửa soi đường dẫn tối:
Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường.
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương.
Trong suy nghĩ của nhà thơ, đến với Tây Bắc là đến với vùng đất thân thuộc của tâm hồn mình, là làm cuộc hành trình về với Mẹ nhân dân - Mẹ Tổ quốc yêu thương. Chế Lan Viên khái quát hành trình trở về với nhân dân bằng những hình ảnh so sánh vừa hiện thực vừa trữ tình, thể hiện độ sâu của cảm xúc và độ cao của sáng tạo nghệ thuật:
Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.
Để nói lên ý nghĩa sâu xa, niềm hạnh phúc lớn lao của việc trở về với nhân dân, tác giả đã sử dụng một loạt hình ảnh so sánh để khơi sâu, mở rộng thêm ý nghĩa của sự việc, sự vật. Nhà thơ nhận thức được rằng văn nghệ sĩ về với nhân dân là điều hết sức tự nhiên, phù hợp với quy luật như nai về suối cũ là nơi quen thuộc, như cỏ đón giêng hai. Chim én gặp mùa để tiếp nhận sức sống và phô bày vẻ đẹp.
Về với nhân dân là về với ngọn nguồn của sự sống, của hạnh phúc; là về nơi đã nuôi dưỡng, chở che, cưu mang mình. Đây là hành động cần thiết và kịp thời đối với tầng lớp văn nghệ sĩ để được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh trên con đường sáng tạo nghệ thuật: Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa,Chiếc nôi dừng bỗng gặp cánh tay đưa. Khát vọng lên Tây Bắc gợi nhớ cả một trời kỉ niệm về những năm tháng kháng chiến gian nan, nguy hiểm mà ấm áp tình người:
Con nhớ anh con người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con.
Con nhớ em con thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư.
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi.
Khát vọng trở về với nhân dân được nhà thơ thể hiện thông qua những cảm xúc chân thành, những kỉ niệm sâu sắc gắn liền với từng con người tiêu biểu cho sự hi sinh, đùm bọc của nhân dân trong kháng chiến. Nhân dân ở đây không còn là một khái niệm chung chung, mà là những con người cụ thể, gần gũi.
Đó là người anh du kích với Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách, Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con, là thằng em liên lạc, Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ; là bà mế lửa hồng soi tóc bạc, Năm con đau mế thức một mùa dài,… Với những điệp ngữ và cách xưng hô thân tình: Con nhớ anh con, Con nhớ em con, Con nhớ mế,… nhà thơ đã thể hiện tình cảm đằm thắm với những con người đã từng gắn bó máu thịt với mình, chia sẻ từng vắt cơm, manh áo trong hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến.
Đó là những con người hi sinh thầm lặng cho cách mạng, cho kháng chiến. Những câu thơ nói về nhân dân Tây Bắc biểu lộ lòng biết ơn, sự gắn bó chân thành và niềm xúc động thấm thía của nhà thơ. Mỗi con đường, mỗi bản làng, mỗi ngọn núi, dòng sông đều gắn với những kỉ niệm vui buồn không thể nào quên.
Đang từ dòng hồi tưởng về những kỉ niệm khó quên, nhà thơ đã nâng cao và khái quát cảm xúc lên thành một triết lí nhân sinh sâu sắc. Khổ thơ dưới đây như một phát hiện về quy luật của tình cảm đời sống tâm hồn con người:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!
Tình thương yêu ở đây không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà còn là những tình cảm sâu nặng đối với quê hương, đất nước. Nhà thơ đã nói tới phép màu của tình yêu. Chính tình yêu đã biến những miền đất xa lạ thành thân thiết như chính quê hương của mình, hóa thành máu thịt tâm hồn mình: Khi ta ở chỉ là nơi đất ở, Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn / Triết lí được rút ra từ tình cảm, cảm xúc chân thành, cho nên không khô khan mà vẫn tự nhiên, dung dị. Ở khổ thơ tiếp theo, mạch thơ đột ngột chuyển sang một rung cảm và suy tưởng khác về: tình yêu và đất lạ:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Nói đến tình yêu, nỗi nhớ, Chế Lan Viên có cách so sánh thật độc đáo và thú vị. Nỗi nhớ trong tình yêu, giữa anh với em là tất yếu, giống như quy luật của đất trời: đông về nhớ rét Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng - một đặc sản của núi rừng Tây Bắc và đẹp như sắc biếc lông chim lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa khái niệm trừu tượng là tình yêu thành những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với con người, nhất là người miền núi.
Đoạn thơ thứ ba mang âm hưởng của khúc hát lên đường háo hức, dồn dập và lôi cuốn. Chất trữ tình bay bổng, lãng mạn kết hợp với giọng điệu sôi nổi, thôi thúc. Đây là lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định một lần nữa quyết tâm lên Tây Bắc, mở mang những nông trường, những vùng kinh tế mới cho đất nước:
Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi
Tình em đang mong tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga.
Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao.
Khao khát ấy thôi thúc tâm hồn nhà thơ vì lên Tây Bắc cũng là về với ngọn nguồn của hồn thơ, của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Những năm tháng gian khổ những hi sinh lớn lao, những đau thương của chiến tranh nay đã kết thành: Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào, trên Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao. Thôi thúc lên Tây Bắc đến đây đã nhập chung làm một với nhu cầu hòa hợp với nhân dân, đất nước. Nhà thơ đã tìm thấy ở đó sức mạnh vươn lên:
Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa,
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Nhà thơ Chế Lan Viên đã mượn hình ảnh tượng trưng thường thấy trong ca dao xưa để biểu đạt vẻ đẹp cao quý của tâm hồn. Giống như vàng không sợ lửa, nhà thơ được rèn luyện, thử thách trong hiện thực gian khó, đau thương và oanh liệt của cuộc kháng chiến trường kì để giờ đây đã thực sự có được chất vàng mười tinh túy của tâm hồn gắn bó máu thịt với nhân dân, đất nước. Kết thúc bài thơ là những ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng có giá trị tư tưởng và thẩm mĩ rất cao, hội tụ tinh thần của toàn bài:
Lấy cả những cơn mơ!
Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng.
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Bằng các thủ pháp nghệ thuật tả thực, ẩn dụ, so sánh, tượng trưng phong phú…, trong bài Tiếng hát con tàu, Chế Lan Viên đã sáng tạo thành công nhiều hình ảnh đặc sắc gợi sự liên tưởng phong phú cho người đọc. Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là lòng biết ơn và niềm hạnh phúc trong sự gắn bó với cuộc sống, với nhân dân và đất nước của một tâm hồn đã từ thung lũng đau thương ra cảnh đồng vui.
Con tàu tâm tưởng chở đầy ước mơ, khát vọng đang băng băng tới những vùng đất xa xôi của Tổ quốc, đồng thời cũng là mảnh đất mỡ màu nuôi dưỡng hồn thơ, hứa hẹn những mùa vàng bội thu trong một tương lai không xa.Người ta nhận xét thơ Chế Lan Viên là thơ trí tuệ.
Rất đúng, bởi nhà thơ chịu khó trăn trở, tìm tòi để sáng tạo ra cái mới lạ, độc đáo mà vẫn nồng nàn chất trữ tình. Có thể coi bài thơ Tiếng hát con tàu tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Chế Lan Viên - một nhà thơ lãng mạn cách mạng nổi tiếng của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu – Bài văn mẫu số 4
"Ôi, một cánh hoa dù hái vô tình
Cũng là vì yêu cuộc đời quá đẹp
Nói chi lời thơ viết trong nước mắt
Chính là mang hạnh phúc đến lòng anh...".
(Khi đã có hướng rồi)
Không biết sinh thời Chế Lan Viên đã có bao nhiêu "lời thơ trong nước mắt", nhưng có nhiều bài thơ đẹp như "một cánh hoa...". Tiếng hát con tàu" là một bài thơ như thế! Sáng tác vào năm 1960, "Tiếng hát con tàu" là một giò phong lan trong tập thơ "Ánh sáng và phù sa" của Chế Lan Viên, "Tập thơ đã gây một tiếng vang cực lớn... đã thành cái mốc chuyển biến quan trọng trong thơ của Chế Lan Viên nói riêng, của thơ Việt Nam nói chung... đã xuất hiện một thi pháp mới, một giọng điệu mới, một cách nghĩ, cách cảm mới". (Người làm vườn vĩnh cửu - Trần Mạnh Hảo).
Bài thơ, ngoài 4 câu đề từ còn có 15 khổ thơ, gồm 60 câu, chủ yếu mỗi dòng thơ 8 từ, chỉ có một câu 12 từ, đó là diện mạo của "Tiếng hát con tàu". Năm 1960, miền Bắc bước vào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, xây dựng và phát triển kinh tế, vãn hóa. Cuộc vận động đồng bào miền xuôi đi xây dựng kinh tế miền núi trở thành một phong trào cách mạng rộng lớn để biến "Tây Bắc thành hòn ngọc ngày mai của Tổ quốc" (Phạm Văn Đồng).
Bài thơ "Tiếng hát con tàu" đã "mang hồn thời đại bay cao" (Tố Hữu), nó đã vượt lên khỏi tính chất thời sự mà trở thành ca khúc thể hiện đắm say khát vọng lên đường, gắn bó với cuộc sống sôi động bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân, để lao động, khám phá và sáng tạo. Chất suy tưởng giàu có, óng ánh vẻ đẹp trí tuệ, sự biện luận sắc sảo và hình tượng mới lạ, độc đáo... đã hội tụ và kết tinh làm nên giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực của bài thơ kiệt tác nay.
Trước hết nói về khổ thơ đề từ rất độc đáo và tài hoa. Cấu trúc vần thơ dưới hình thức hỏi – đáp. Không chỉ hỏi bằng câu hỏi mà đáp cũng bằng câu hỏi. Giọng điệu ngân vang, say mê, hào hứng:
"Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?".
Bao trùm lời đề từ là niềm tự hào về một tình yêu lớn của nhà thơ. Hỏi - đáp để tự khẳng định sự nhận thức của tâm hồn mình. Câu 1 nói lên tình cảm đẹp, rộng lớn: không chỉ yêu riêng Tây Bắc mà nhà thơ còn hướng tâm hồn mình đến mọi miền của đất nước bao la với tất cả tình yêu thương tha thiết. Câu thứ 2 thứ 3 chỉ rõ nguồn gốc của tình cảm cao đẹp đó. Điều kiện chủ quan là "Khi lòng ta đã hóa những con tàu", tự thân "ta" đã sống với khát vọng đẹp muốn đi tới mọi miền của Tổ quốc thân yêu để hiến dâng và phục vụ.
Điều kiện khách quan là hiện thực xã hội, là không khí của thời đại: "Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát". Đó là một thời kì rất đẹp, rất sôi động trên miền Bắc nước ta. Nhân dân phấn khởi, hào hứng xây dựng đất nước và cuộc sống mới. Một nhà thơ khác đã ca ngợi là "... bài thơ miền Bắc - rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần". Câu thơ thứ 4 là hệ quả tất yếu mà điều kiện chủ quan và khách quan đưa tới: "Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?".
Câu hỏi tu từ vang lên kiêu hãnh biểu lộ tâm hồn mình đã hòa nhập, đã gắn bó, đã mến yêu nồng hậu Tây Bắc. Cách so sánh và cách nói mới mẻ, hấp dẫn. Khổ thơ đề từ không chỉ nói lên tình yêu Tây Bắc, tình yêu Tổ quốc mà còn thể hiện sự biện luận sắc sảo - một nét đẹp trong thi pháp của Chế Lan Viên.
"Anh đi chăng?" hay "anh giữ trời Hà Nội?"; "Anh có nghe...?" và "Tàu gọi anh đi, sao anh chửa ra đi?" - Đó là tâm trạng, là nỗi niềm băn khoăn về chuyện đi hay ở lại? Tâm trạng ngại đi xa, sợ khó khăn gian khổ... là một sự thật của lòng người, không chỉ riêng nhà thơ trong những tháng ngày hòa bình sau 9 năm kháng chiến chống Pháp. Cuộc đấu tranh tư tưởng diễn ra trong mỗi con người, đó là một sự thật. Chế Lan Viên đã sử dụng biện pháp tương phản để tô đậm tâm trạng và nỗi niềm băn khoăn ấy. Hàng loạt câu hỏi tu lừ xuất hiện, âm điệu thơ đầy ám ảnh, giục giã:
"Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
... Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
...Tàu gọi anh đi,sao chửa ra đi!?".
Hình ảnh con tàu trong 2 khổ thơ đầu: "Con tàu lên Tây Bắc anh đi chăng?" và "Tàu đói những vành trăng" - mới chỉ là một biểu tượng về một hành trình đi xa; con tàu này còn "đói những vành trăng" nghĩa là chưa có nhiều động lực để phóng tới những không gian, những chân trời. Nó chưa phải là "Tiếng hát con tàu". Đó là sự tinh tế trong tư duy nghệ thuật của Chế Lan Viên.
Chín khổ thơ tiếp theo hàm chứa những tư tưởng tình cảm đẹp khi nhà thơ nghĩ về Tây Bắc và con người Tây Bắc vói bao kỉ niệm sâu sắc, cảm động. Bài học về nghĩa tình thuỷ chung đối với đất nước và nhân dân làm cho ta lớn lên về mặt tâm hồn và để ta nhớ mãi.
Ngọn lửa kháng chiến thần kì, những bản, những con đèo, dòng suối, những anh du kích, em bé liên lạc, bà mế, cô gái Tây Bắc "vắt xôi nuôi quân" đã trở thành kỉ niệm, để thương để nhớ, đã hóa tâm hồn người cán bộ kháng chiến miền xuôi, nhà thơ...
Tây Bắc là hồn thiêng sông núi, là nơi rực cháy ngọn lửa kháng chiến, ngọn lửa Điện Biên thần kì, là "xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng", là mảnh đất yêu thương "nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất – Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân". Tự hào mà hướng về tương lai với bao niềm tin sáng ngời:
"Ơi kháng chiến!Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường".
Nhận thức ấy đã khai sáng tâm hồn, nhận thức về con đường đi tới còn nhiều gian khổ mà tự ý thức "con cần vượt nữa"để được trở về cội nguồn "cho con về gặp lại Mẹ yêu thương". "Mẹ" được viết hoa, một mĩ từ, là hình ảnh cao đẹp của Bà Mẹ Tổ quốc muôn quý nghìn yêu.
Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ chính xác, biểu cảm, sáng tạo hình ảnh đã làm cho vần thơ "Tiếng hát con tàu" cất cánh: "xứ thiêng liêng", "nơi máu rỏ", "trái chín đầu xuân", "ngọn lửa... soi đường", "Mẹ yêu thương". Các số từ chỉ lượng thời gian: "mười năm qua", "nghìn năm sau" là một cách nói mang tính triết luận về một chiêm nghiệm lịch sử vô cùng thấm thía. Với Chế Lan Viên thì gặp lại nhân dân là một niềm vui lớn, một khao khát lớn, một niềm hạnh phúc lớn:
"Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ,
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa".
Một cách nói vừa quen vừa là lạ. Năm hình ảnh so sánh liên tiếp xuất hiện để cụ thể hóa, hình tượng hóa niềm vui, niềm hạnh phúc to lớn "Con gặp lại nhân dân". Có hình ảnh về thế giới thiên nhiên, có hình ảnh vẻ cõi đời, tuổi thơ. Nhân dân là cội nguồn của sự sống và hạnh phúc, là suối mát mùa xuân đón bầy nai đói khát trở về chốn cũ yêu thương, là hơi ấm mùa xuân đem lại màu xanh và hương mật cho cỏ, là ánh thiều quang cho chim én sánh đôi kết đàn, là dòng sữa ngọt cho bé thơ đói lòng, là cánh tay nhẹ đưa nôi mềm đem lại giấc ngủ say, cơn mơ đẹp cho em nhỏ...
Có hình ảnh thơ mộng. Có hình ảnh ấm áp sâu nặng nghĩa tình. Những so sánh ấy còn mang một ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: về với nhân dân là trở về ngọn nguồn hạnh phúc, là hợp đạo lí và đúng lẽ tự nhiên. Triết luận ấy càng trở nên sâu sắc, thấm thìa vì nó được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ chọn lọc, hình tượng, gợi cảm, thi vị.
Với Chế Lan Viên thì gặp lại nhân dân, trở về trong lòng nhân dân là để soi lại lòng mình, là để đền ơn đáp nghĩa, sống thuỷ chung trong tình người. Nhân dân đã hi sinh, đã tận tình, đã cưu mang và san sẻ. Cách mạng, anh bộ đội, anh cán bộ đã được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc trong tình thương. Nhân dân được nhà thơ nói đến là những con người cụ thể tiêu biểu cho mọi tầng lớp trong cộng đồng dân tộc với bao phẩm chất đẹp như vàng mười, sáng như ngọc.
Nhân dân cần lao và anh hùng, đó là "anh con, người anh du kích", trước lúc ra trận, với "chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn – Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách - Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con". Là "em con, thằng em liên lạc" như con thoi giữa rừng sâu đầy bóng giặc, "Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc – Mười lăm năm tròn chưa mất một phong thư..". Là bà mế Tây Bắc:
"Con nhớ mế. Lửa hồng soi tóc bạc,
Năm con đau, mế thức một mùa dài,
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi".
"Lửa hồng soi tóc bạc" là một hình ảnh rất đẹp. Lửa hồng ấm áp của tình thương soi sáng mái tóc bạc của người mẹ hiền miền núi. Mế với con không phải tình máu mủ ruột thịt, không phải "hòn máu cắt" ra, nhưng mế đã nuôi con như con đẻ của mế, nên "trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi". Những từ ngữ chỉ độ dài của thời gian như: "một mùa dài", "trọn đời", "nhớ mãi", liên kết với từ "nhớ", từ "thức" đã thể hiện một quan hệ tình sâu nghĩa nặng, thuỷ chung rất đáng tự hào.
Nhớ người rồi nhớ đến cảnh. Người lính trong đoàn "quân xanh" Tây Tiến thì "Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi"; anh cán bộ về xuôi nhớ Việt Bắc là "Nhớ từng rừng nứa bờ tre – Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy". Chế Lan Viên nhớ Tây Bắc với nỗi nhớ "đã hóa tâm hồn":
"Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ,
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở,
Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!".
Hai chữ "nhớ" diễn tả nỗi nhớ khôn nguôi. Nhớ bản sương, nhớ đèo mây là nỗi nhớ xa xôi, nỗi nhớ phủ mờ sương khói trong hoài niệm, nhớ bồn chồn không yên. Những bản sương, những đèo mây ấy đã là "nơi hồn ta thấm đất", đã gắn bó với anh, với em, với mế... bằng bao kỉ niệm sâu sắc một thời gian khổ, vì thế "Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?". Hỏi mình cũng là để tự đo lòng mình, đo yêu thương tình nghĩa.
Đất lành thì chim đậu, lúc đầu thì mới "chỉ là nơi đất ở" để mưu sinh, để tồn tại. Chỉ có sống hết mình, gắn bó với "nơi ở’ bằng tâm huyết, bằng yêu thương, thi mới có thể "Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn". Từ những chi tiết, những hình ảnh, những cảm xúc cụ thể, tác giả đã khái quát, đã nâng lên thành chiêm nghiệm, những suy ngẫm triết luận, với ý thức sâu xa đề cao đạo lí đẹp "sống hết mình, sống thủy chung với nhân dân, với quê hương đất nước".
Nỗi nhớ em là một nỗi nhớ đẹp. Nhớ "vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng... Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương". Nhớ em trong mối tình quân dân thắm thiết. Nhớ em với bao xôn xao, bồi hồi:
"Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc,
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương".
Có biết sống trong hạnh phúc tình yêu thì con thuyền của lòng ta mới neo giữ nơi bến nước nhân dân. "Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét", nỗi nhớ thật tự nhiên như quy luật của sự sống. Sóng nhớ bờ, đông nhớ rét, anh nhớ em, đó là sức mạnh của tình yêu, "Tình yêu của ta" của anh và em gắn bó khăng khít, bền chặt (như cánh kiến), thơ mộng (như hoa vàng). Cũng là cách nói rất thơ, rất hồn nhiên.
Tình yêu đã làm đẹp đôi ta, như khi mùa xuân đến, chim kết đôi và sánh bầy, lông trở biếc quyến rũ hơn, tiếng hót tiếng gù gọi đàn hay hơn, đáng yêu hơn. Ở đoạn trên, tác giả viết: "Khi ta đi, đất đá hỏa tâm hon"và ở đây, ông lại nâng lên một âm tần, âm vực khác: "Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương". Đó là những câu thơ mà ngôn ngữ được nén lại, cô đúc lại, luyện thành như một châm ngôn sống và ứng xử đẹp, khẳng định quy luật và quan niệm về sống và tình yêu.
Phép đối và biện pháp so sánh được vận dụng sáng tạo viết nên những vần thơ mang vẻ đẹp ngôn ngữ cân xứng, hài hòa, những hình ảnh có sắc màu gợi cảm. Triết lí, triết luận trong thơ Chế Lan Viên được khoác bằng những trang phục, những hình ảnh đầy chất thơ, một mặt, ông tránh được hạn chế "ý sâu mà khô", trái lại, đã sáng tạo nên những câu thơ, vần thơ sáng giá nhất, những câu thơ trong trí nhớ của nhiều người.
Bốn khổ thơ cuối nói về khúc hát lên đường. Con tàu từ chỗ "đói những vành trăng" nay trở thành con tàu "mộng tưởng", "uống một vầng trăng"... Giọng điệu thơ rộn ràng, diễn tả niềm vui phấn khởi lên đường. Đến đây, con tàu mới trở thành khát vọng sống, khát vọng lên đường. Lên Tây Bắc, đi tới mọi miền Tổ quốc là đáp lời kêu gọi "lên đường" của đất nước, làm theo tiếng gọi của lương tâm, của tình em, tình mẹ đang mong, đang chờ. Tất cả đều thôi thúc:
"Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga".
Tàu "vỗ đôi cánh", "mắt thèm mái ngói đỏ trăm ga" - là cách nói lãng mạn, say mê. Lên Tây Bắc trong không khí tưng bừng của ngày hội - ngày hội lớn của nhân dân lên đường dựng xây đất nước:
"Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến,
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao".
Khổ cuối giọng thơ vang lên. Có câu thơ mở rộng đến 12 từ. Hai dòng cuối sử dụng biện pháp "bắc cầu" liền mạch. Cùng với con tàu đã có thêm cơn mơ, mộng tưởng, có vầng trăng, có mặt hồng em, và có cả con suối mùa xuân:
"Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng?
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em như suối lớn mùa xuân".
"Mặt hồng em" là một ẩn dụ nói về hiện thực cuộc sống khi mà "mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào", nói về những sáng tạo thi ca gặt hái được khi nhà thơ đã trở lại Tây Bắc - mẹ của hồn thơ - trở về với nhân dân. Khổ thơ cuối khẳng định một niềm tin của nhà nghệ sĩ chân chính. Trở về với nhân dân là để lấy lại "vàng thứ vàng mười của lòng mình đích thực, là để gắn bó với hiện thực của đất nước và nhân dân mà khám phá và sáng tạo, để "ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân".
"Tiếng hát con tàu" là tiếng hát mê say của Chế Lan Viên. Bài học thấm thía nhất là hãy biết trở về với nhân dân, sống trong lòng nhân dân để lao động sáng tạo để hiến dâng và phục vụ, để khám phá và để... đền đáp nghĩa tình. Bài thơ còn nói lên một cách xúc động nhất là phải biết sống đẹp trong tình yêu lứa đôi, trong tình yêu đất nước và nhân dân. Nhan đề bài thơ là "Tiếng hát con tàu" gợi lên trong tâm trí chúng ta một ý tưởng đẹp đẽ là hãy sống đẹp, sống có hoài bão, sống có khát vọng như con tàu "vỗ cánh" bay cao, bay xa làm nên sự nghiệp lớn.
Tiếng hát con tàu" đã thể hiện tập trung phong cách nghệ thuật của Chế Lan Viên: mẫn cảm, có tài sáng tạo hình ảnh (ẩn dụ, so sánh), sử dụng tương phản đối lập và hàng loạt câu hỏi tu từ để biện luận, để tự tranh biện làm cho ý tưởng, chủ đề được thể hiện sâu sắc. Giọng thơ đa thanh, biến hóa, càng về cuối càng rộn rã như một hành khúc.
Nét đặc sắc nhất của "Tiếng hát con tàu" là có một số câu thơ rất hay, kết hợp chặt chẽ giữa triết luận với cảm xúc, giữa trí tuệ với hình tượng. Đến nay, đường lên Tây Bắc vẫn chưa có đường tàu và con tàu, nhưng "Tiếng hát con tàu" của Chế Lan Viên vẫn hấp dẫn chúng ta bởi nó là văn chương đích thực, nó cho ta cảm và hiểu về lẽ sống và tình yêu.
Phân tích tác phẩm Tiếng hát con tàu – Bài văn mẫu số 5
Chế Lan Viên là nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Con đường sáng tác của nhà thơ trải qua nhiều thăng trầm với những bước ngoặc trong phong cách nghệ thuật và tư tưởng chủ đạo, không còn là thế giới kinh dị, huyền bí trong Điêu tàn, sau năm 1945, ông đã rẽ hướng tập trung khai thác đề tài con người và đất nước trong kháng chiến.
Thơ Chế Lan Viên mang đậm vẻ đẹp trí tuệ và giàu suy tư triết lý với những hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, đầy sức sáng tạo. Tiếng hát con tàu được rút ra từ tập Ánh sáng và phù sa, bài thơ được lấy cảm hứng từ một sự kiện kinh tế - chính trị có ý nghĩa vô cùng lớn lao: Cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế nơi miền núi Tây Bắc.
Bài thơ là sự kết tinh xuất sắc giữa tư tưởng và nghệ thuật của Chế Lan Viên trong sự nghiệp thi ca cách mạng của mình. Những câu thơ trong lời đề từ cất lên thổn thức, lay động lòng người đọc, nó đã thể hiện được tư tưởng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
Câu hỏi tu từ vang lên thật nhẹ nhàng “Tây Bắc ư?” chứa đựng nỗi trăn trở, băn khoăn của nhà thơ trước tình cảnh đất nước lâm nguy. Tiếng gọi của Tổ quốc cứ vang vọng bên tai và tâm hồn Chế Lan Viên giờ đây chỉ còn là Tây Bắc xa xôi kia, ông chẳng còn ngại khó khăn, cũng chẳng sợ hiểm nguy rình rập bởi vì trái tim đã hoà chung nhịp đập Tổ quốc, bởi lòng ông đã “hoá những con tàu”.
Hai khổ thơ mở đầu vang lên những lời thơ như thúc giục, như rộn rã hơn, ngôn từ thật tha thiết, những câu hỏi ngày càng dồn dập đang xoáy sâu trong lòng tác giả nói riêng và thế hệ văn nghệ sĩ nói chung:
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Hình ảnh ẩn dụ “con tàu” mang ý nghĩa biểu trưng cho khát vọng, hoài bão lớn lao đang tuôn chảy trong lòng hàng triệu nhân dân Việt Nam ta khi ấy. Tiếng con tàu vút cao lên như lời kêu gọi mạnh mẽ, nồng nhiệt của Chế Lan Viên. Biện pháp tu từ nhân hoá “Tàu đói những vành trăng” thật biểu cảm, sinh động, “vành trăng” hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình cũng là biểu tượng cho ánh sáng, niềm tin và hy vọng dạt dào về chiến thắng vang dội vào một tương lai không xa.
Động từ “đói” gợi cho người đọc bao suy ngẫm, đất nước thật sự đang rất cần sự đồng lòng, sự đoàn kết trong nhân dân, dấn thân sẵn sàng hy sinh để xây dựng Tổ quốc ngày càng vững mạnh. Tây Bắc - một địa danh cụ thể xa xôi, hiểm trở cũng là một hình ảnh biểu trưng cho đất nước, Tây Bắc là cội nguồn làm nên linh hồn của bài thơ, của sáng tạo nghệ thuật dạt dào.
“Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp”, nghệ thuật đối lập tương phản gợi sự trăn trở, day dứt trong lòng mỗi độc giả. Ta sống dưới sự che chở của thiên nhiên, sự bao bọc của Tổ quốc nhưng có khi nào ta giật mình nhìn lại mình đã làm được gì cho đất nước hay chỉ sống một cuộc đời vô nghĩa “lòng đóng khép” với thế sự ngoài kia.
Niềm hạnh phúc dâng trào, niềm vui sướng khi trở về với vòng tay quê hương được nhà thơ tái hiện thật chân thành, mộc mạc trong chín khổ thơ tiếp theo, qua đó gợi lại về những kỷ niệm tươi đẹp, gắn bó thuở kháng chiến:
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân…
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương.”
Con người khung cảnh nay đã đổi thay, mười năm kháng chiến đi qua “như ngọn lửa” rạo rực, vẫn đang bùng cháy trong lòng tác giả. Có lẽ lúc này, tâm hồn cần sự nghỉ ngơi, cần sự an ủi bởi bàn tay gia đình cho nguôi đi nhớ thương chất chứa trong lòng bao năm, “Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”. “Mẹ” ở đây ngoài là người mang nặng đẻ đau, thì cũng có thể là mẹ thiên nhiên, mẹ Tổ quốc thân thương.
Biết bao kỷ niệm vùng Tây Bắc vẫn in đậm trong tâm trí tác giả, hình ảnh “người anh du kích”, “thằng em liên lạc”, người mẹ tóc bạc, nhớ “bản sương giăng”, nhớ cả “đèo mây phủ”, những hình ảnh thật cụ thể, giàu liên tưởng sâu sắc. Tình yêu thương sâu nặng, sự che chở, đùm bọc của đồng bào nơi đây như tiếp thêm sức mạnh cho những người chiến sĩ trong công cuộc xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
Chế Lan Viên bằng sự nhạy cảm của mình cũng đã khám phá ra quy luật rất đặc biệt trong suy nghĩ con người: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/Khi đi đất bỗng hoá tâm hồn”. Thuở đầu đặt chân đến vùng đất mới, mọi thứ trong ta hoàn toàn xa lạ, đất chỉ đơn giản là nơi ta sinh sống, tồn tại.
Nhưng thời gian thấm thoát thoi đưa, lâu dần mảnh đất ấy trở nên thân thuộc, từng cái cây ngọn cỏ, từng dáng vẻ con người hằn sâu trong trái tim ta thật sâu sắc, khó phai nhoà, trở thành một phần trong mảnh ghép “tâm hồn” những con người xa quê. Sự chuyển hoá lạ kỳ ấy không phải tự nhiên mà có, nó xuất phát từ tình yêu thương, gắn bó, sự đồng cảm của tâm hồn, nó biến vùng đất lạ lẫm trở thành quê hương thứ hai của mọi người.
Tình yêu trong thơ Chế Lan Viên chẳng phải là tình cảm lứa đôi đơn lẻ mà nó còn hoà mình cùng tình yêu thương đất nước, quê hương. Anh nhớ em! Nỗi nhớ dạt dào, da diết “như đông về nhớ rét”, gắn bó keo sơn, đẹp đẽ, thơ mộng “như cánh kiến hoa vàng”. Tình anh và em nồng nàn, cháy bỏng trong sự chứng kiến của núi rừng Tây Bắc, chỉ cần nắm tay nhau đi qua biết bao mùa chiến dịch.
Tình yêu ta đã hoá miền đất xa lạ trở thành thân quen, gần gũi như quê hương máu thịt, tâm hồn. Bằng ngòi bút tài hoa đậm chất nghệ sĩ lãng mạn của mình, Chế Lan Viên không ngần ngại diễn tả tình yêu với sự hóm hỉnh sâu lắng, sự khăng khít, thuỷ chung với những hình ảnh rực rỡ sắc màu, mang đậm dư vị của núi rừng vùng cao Tây Bắc.
Tiếng gọi của Tổ quốc lại vang lên mạnh mẽ, người chiến sĩ lên đường ra chiến trường không một giây đắn đo suy nghĩ, anh đi mang theo gánh nặng trọng trách trên vai “Đất nước gọi hay lòng ta gọi?”, cả niềm tin yêu nơi hậu phương đang mong chờ “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”. Tác giả mượn hình ảnh trong ca dao để miêu tả vẻ đẹp thanh cao, trong sáng trong tâm hồn, “vàng” vừa cao quý, vừa sắt son kiên cường trước ngọn lửa hung tàn, không hề nao núng, giữ nguyên ý chí thuở ban sơ của mình.
Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên là bài thơ đặc sắc để lại giá trị to lớn cho nền thơ ca Việt Nam. Bài thơ là tiếng lòng trăn trở, tha thiết của tác giả trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, mong muốn được hoà nhập với nhân dân, với cuộc đời. Hình ảnh “con tàu” chở bao hy vọng, khát khao của Chế Lan Viên đến vùng đất Tây Bắc xa xôi, nơi đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ nuôi dưỡng chất thơ trong tâm hồn tác giả.