Những đứa con trong gia đình
I. Đôi nét về tác giả Nguyễn Thi
- Nguyễn Thi sinh năm 1928, mất năm 1968, bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn, tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca
- Quê quán: xã Quần Phương Thượng (nay là xã Hải Anh), huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định
- Ông mồ côi cha từ năm mười tuổi, mẹ đi bước nữa, ông sống nhờ vào họ hàng nên vất vả, tủi cực từ nhỏ
- Năm 1943, ông theo người anh vào Sài Gòn, vừa đi làm kiếm sống vừa tự học
- Năm 1945, ông tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, ông làm công tác tuyên huấn, vừa chiến đấu vừa hăng hái hoạt động văn nghệ
- Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác ở tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội
- Năm 1962, ông tình nguyện trở lại chiến trường miền Nam, công tác tại Cục chính trị quân giải phóng miền Nam, là một trong những thành viên sáng lập và phụ trách tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
- Năm 2000, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
- Sáng tác của Nguyễn Thi bao gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Sau khi ông hi sinh, tác phẩm của ông được sưu tập và in lại trong Truyện và kí (xuất bản năm 1978), Nguyễn Ngọc Tấn – Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển, xuất bản năm 1996)
- Phong cách sáng tác:
+ Bắt nguồn từ hiện thực nóng bỏng, ác liệt ở mặt trận miền Đông Nam Bộ
+ Nhân vật trong sáng tác của ông là những người nông dân vùng Đông Nam Bộ, những con người với bản chất hồn nhiên, bộc trực, trung hậu vừa có lòng căm thù giặc sâu sắc; vô cùng gan góc, dũng cảm, sẵn sàng hi sinh vì quê hương, vì độc lập, tự do của Tổ quốc
+ Năng lực phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo, sâu sắc
+ Sáng tác của ông vừa giàu chất hiện thực, đầy những chi tiết dữ dội, ác liệt của chiến tranh, vừa đằm thắm chất trữ tình với một ngôn ngữu phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ, có khả năng tạo nên những nhân vật có cá tính mạnh mẽ
II. Đôi nét về tác phẩm Những đứa con trong gia đình
1. Hoàn cảnh ra đời
Những đứa con trong gia đình là một trong số những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng
2. Tóm tắt văn bản
Chuyện kể về hai chị em Chiến – Việt, những đứa con trong một gia đình có nhiều mất mát, đau thương: cha bị Pháp chặt đầu hồi chín năm, mẹ vừa bị đại bác Mĩ bắn chết. Khi hai chị em Chiến – Việt trưởng thành, cả hai đều giành nhau tòng quân. Nhờ sự đồng tình của chú Năm, cả hai đều được nhập ngũ và ra trận.Trong trận đánh ác liệt tại một khu rừng cao su, Việt diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ và sáu tên Mĩ lẻ nhưng anh cũng bị thương nặng, lạc đồng đội, một mình nằm lại chiến trường khi còn ngổn ngang dấu vết của đạn bom và chết chóc. Việt ngất đi, tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại, Việt hồi tưởng về gia đình, về những người thân yêu như mẹ, Chú Năm, chị Chiến… .Đoạn trích thể hiện lần tỉnh dậy thứ tư của Việt trong đêm thứ hai. Tuy mắt không nhìn thấy gì, tay chân đau buốt, tê cứng nhưng Việt vẫn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và cố gắng từng tí một lê về phía có tiếng súng của quân ta vì phía đó “là sự sống”. Việt hồi tưởng lại những sự việc xảy ra từ sau ngày má mất. Cả hai chị em đều háo hức tòng quân, nhưng Chị Chiến nhất định giành đi trước vì cho rằng Việt chưa đủ 18 tuổi. Đến đêm mít tinh, Việt nhanh nhảu ghi tên mình trước. Chị Chiến chậm chân và “bật mí” chuyện Việt chưa đầy 18 tuổi. Nhờ chú Năm đứng ra xin giúp, Việt mới được tòng quân. Đêm hôm ấy, chị Chiến bàn bạc với Việt về mọi việc trong nhà. Việt răm rắp chấp nhận mọi sự sắp đặt của chị Chiến, vì Việt thấy chị Chiến nói giống má quá chừng.Sáng hôm sau, hai chị em khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm. Việt cảm thấy lòng mình “thương chị lạ”. Sau ba ngày đêm, đơn vị đã tìm thấy Việt. Anh được đưa về điều trị tại một bệnh viện dã chiến; sức khoẻ hồi phục dần. Anh Tánh giục Việt viết thư cho chị kể lại chiến công của mình. Việt rất nhớ chị, muốn viết thư nhưng không biết viết như thế nào vì Việt cảm thấy chiến công của mình chưa thấm gì so với thành tích của đơn vị và mong ước của má.
3. Bố cục (2 phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “đang bắt đầu xung phong”): Việt bị thương ở chiến trường, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Lần thứ tư Việt tỉnh dậy, Việt lắng nghe mọi âm thanh, chờ đồng đội đến và sẵn sàng chiến đấu
- Phần 2 (còn lại): Kí ức của Việt về câu chuyện hai chị em tranh nhau đi tòng quân
4. Giá trị nội dung
Truyện kể về những người con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hướng cách mạng. Chính sự gắn bó sâu nặng giưa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giưa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
5. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo
- Nghệ thuật trần thuật (nghệ thuật kể chuyện) qua dòng hồi tưởng của nhân vật góp phần giúp nhân vật bộc lộ tính cách của mình và tác phẩm đậm chất trữ tình
- Ngôn ngữ bình dị, phong phú, giàu giá trị tạo hình và đậm chất Nam Bộ
- Chi tiết được chọn lọc vừa cụ thể vừa giàu ý nghĩa gây ấn tượng mạnh đến người đọc, làm nổi rõ góc cạnh của cuộc sống
III.Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Thi (tiểu sử, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật..)
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm (hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật)
II. Thân bài
1. Truyền thống gia đình
- Truyền thống yêu nước mãnh liệt, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tinh thần chiến đấu cao đã gắn kết những con người trong gia đình với nhau. “Chuyện gia đình nó cũng dài như sông, để rồi chú chia cho mỗi đứa một khúc mà ghi vào đó”
+ Chú Năm: đại diện cho truyền thống và lưu giữu truyền thống
+ Má Việt: hiện thân của truyền thống. Đó là một con người chắc, khỏe, sực mùi lúa gạo và mồ hôi, thứ mùi của đồng áng, của cần cù sương nắng. Ấn tượng sâu đậm ở má Việt là khả năng cắn răng ghìm nén đau thương để sống và duy trì sự sống, che chở cho đàn con và tranh đấu.
- Lòng thủy chung son sắt với cách mạng
2. Nhân vật chú Năm
- Lời nói của chú Năm với cán bộ và với chị em Chiến, Việt cho thấy chú xem tòng quân là việc lớn, còn việc nahf chỉ là việc thỏn mỏn, chú ủng hộ việc hai chị em Chiến và Việt tòng quân. Đó cũng chính là sự tiếp nối truyền thống gia đình
- Tiếng hò của chú Năm:
+ Điệu hò giữa ban ngày
+ Một hiệu lệnh: hiệu lệnh tòng quân, hiệu lệnh lên đường
+ Lời nhắn nhủ tha thiết: lời nhắn nhủ truyền thống gia đình tới hai chị em Chiến, Việt
+ Lời thề dữ dội: lời thề thủy chung son sắt với cách mạng, với dân tộc
- Chú Năm – người lưu giữ, ghi chép cuốn sổ gia đình: ghi lại những đau thương, mất mát và ghi lại cả những chiến công
⇒ Chú Năm vừa là người lưu giữ, vừa là người truyền lại truyền thống gia đình cho những thế hệ sau
3. Hai chị em Chiến, Việt
a) Nét tính cách chung của hai chị em
- Sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát, đau thương
- Hai chị em có chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy còn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thôi thúc hai chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng: được cầm súng đánh giặc. Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em.
- Cả hai chị em đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm
- Hai chị em Việt đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con (giành nhau bắt ếch nhiều hay ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tòng quân
b) Nét riêng ở hai chị em Chiến và Việt
- Chị Chiến: người lớn hơn Việt
+ Là người luôn yêu thương và nhường nhịn em, trừ việc đi tòng quân
+ Là người chị mang nhiều phẩm chất, vẻ đẹp của má khiến cho Việt trong đêm hai chị em chuẩn bị đi tòng quân có cảm giác “chị Chiến sao mà giống má”
+ Đảm đang, tháo vát, khôn ngoan trong cách thu xếp việc gia đình trước lúc đi tòng quân
- Việt: mang nét vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch của cậu con trai mới lớn
+ Luôn tranh giành phần hơn từ chị: đi bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội, ...
+ Thích những trò chơi hiếu động: bắn chim, câu cá, đi bộ đội vẫn mang ná thun
+ Đêm trước khi lên đường đi bộ đội, Việt vẫn vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, “chụp một con đom đóm úp trong lòng bàn tay”, rồi ngủ quên lúc nào không biết.
+ “Giấu chị như giấu của riêng” trước những lời trêu đùa của các anh trong đội.
+ Bị thương trên chiến trường, không sợ địch, không sợ chết mà chỉ sợ con ma cụt đầu, gặp lại anh em thì vừa khóc vừa cười như đứa trẻ “khóc đó rời cười đó”.
⇒ Việt và Chiến đã kế tục xuất sắc truyền thống của gia đình
III. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài văn mẫu số 1
Nguyễn Thi là nhà văn gắn bó sâu sắc với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ . Tác phẩm tiêu biểu của ông là Những đứa con trong gia đình . Truyện kể về những đứa con trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc và khao khát chiến đấu, son sắt với cách mạng.
Những đứa con trong gia đình là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của Nguyễn Thi viết ngay trong những ngày chiến đấu chống Mĩ ác liệt khi ông công tác ở tạp chí Văn nghệ quân giải phóng năm 1966. Nhân vật chính của truyện là Việt . Việt là một chiến sĩ giải phóng quân. Ông nội và bố Việt bị giặc giết hại,Mẹ Việt một mình nuôi con vất vả rồi cũng chết vì bom đạn.
Gia đình chỉ còn lại Việt, chi Chiến, thằng Út em , chú Năm, và một người chi nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống ấy được chú Năm ghi tất cả vào cuốn sổ gia đình. Việt và Chiến hăng hái đi tòng quân giết giặc. Trong một trận chiến đấu, Việt hạ được một chiếc xe bọc thép của địch nhưng lại lạc đồng đội và bị thương nặng ngất đi tỉnh lại nhiều lần.
Mỗi lần tỉnh lại, dòng hồi ức lại đưa anh về với những kỉ niệm thân thiết đã qua: kỉ niệm về má,về chị Chiến, chú Năm, đồng đội và anh Tánh…Anh Tánh và đồng đội tìm được Việt, đưa về điều trị một bệnh viện và sức khỏe Việt dần dần hồi phục. Chuyện được kể theo dòng hồi ức của Việt trong những lần ngất đi tỉnh lại ấy.
Đặc sắc của truyện là đã dựng nên được hình tượng những con người trong một gia đình nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, thuỷ chung, son sắt với cách mạng. Những con người này có những nét chung thống nhất, thể hiện rõ đặc điểm của nhân vật Nguyễn Thi.
Đó là: Căm thù giặc sâu sắc, gan góc, dũng cảm, khao khát được chiến đấu giết giặc; giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung son sắt vời quê hương và cách mạng. Tuy nhiên, trong cái dòng sông truyền thống của gia đình ấy, “mỗi người một khúc”, có nét tính cách riêng, không ai giống ai. Đó chính là điểm nói lên tài năng của Nguyễn Thi.
Trong dòng sông truyền thống gia đình này, chú Năm là khúc thượng nguồn, là nơi kết tinh đầy đủ hơn cả truyền thống của gia đình. Chú hay kể sự tích gia đình. Chú là tác giả cuốn sổ gia đình ghi chép tội ác của giặc và chiến công của các thành viên trong gia đình. Chú Năm là người lao động chất phác nhưng giàu tình cảm. Tâm hồn chú Năm bay bổng, đạt dào cảm xúc khi cất lên tiếng hò. Những lúc đó, chú Năm như đặt cả trái tim mình vào trong câu hò, tiếng hát.
Cùng với chú Năm, má Việt cũng là một hiện thân của truyền thống. Đây là một hình tượng người phụ nữ mang đậm những nét tính cách của nhân vật Nguyễn Thi. Rất gan góc, căm thù giặc sâu sắc. Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát.
Cuộc đời lam lũ, vất vả chồng chất đau thương tang tóc, nhưng cắn răng nén chặt nỗi đau thương của mình để nuôi con, đánh giặc. Một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng; hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà “hai bàn tay to bản” vẫn “phủ lên đầu đàn con đang nép đước chân”; mỗi lần bọn lính bắn dọa “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển”…
Đó là hình ảnh của sự gan góc, chở che mang ý nghĩa biểu tượng về người phụ nữ ở một xứ sở như đất nước ta, cuộc sống thì lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng con người lại rất đỗi kiên cường, cao cả. Má Việt đã ngã xuống trong một cuộc đấu tranh nhưng trái cà-nông lép má nhặt đem về vẫn còn nóng hổi. Trong quan niệm của Nguyễn Thi, người mẹ ấy cái phần thác chỉ là thể phách còn linh hồn thì bất tử, sống mãi tròng những đứa con. Không phải ngẫu nhiên mà vào cái đêm sắp xa nhà đi chiến đấu, những đứa con đểu cảm nhận không phải ai khác mà chính là người mẹ đã hiện về.
Chiến có những nét giống mẹ: gan góc, đảm đang tháo vát. Nguyễn Thi có ý thức tô đậm nét kế thừa người mẹ nhân vật Chiến. Chiến là một tính cách đa dạng: vừa là một cô gái mới lớn, tính khi còn rất trẻ con, vừa là người chị biết nhường em,.,biết lo toan, đảm đang, tháo vát. So với người mẹ, Chiến không chỉ khác ở cái vẻ trẻ trung thích làm duyên làm dáng. Vận hội mới của cách mạng đã tạo điều kiện cho Chiến được trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lới thề như dao chém đá của mình: “Đã lăm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất” .
Trong tác phẩm, Việt là nhân vật xuất hiện nhiều lần nhất. Việt đã hiện lên cụ thể và sinh động trước mắt ta, vừa là cậu con trai mới lớn, vừa là một chiến sĩ gan góc, dũng cảm, kiên cường. Việt có cái nét riêng dễ mến của một cậu con trai lộc ngộc vô tư, tính anh còn rất trẻ con, rất ngây thơ, hiếu động.
Nếu Chiến luôn biết nhường nhịn em, thì trái lại, Việt lại hay tranh giành phần hơn với chị. Việt rất thích đi câu ca, bắn chim, và đến khi đi bộ đội vẫn còn đem theo cả cái súng cao su ở trong túi. Mọi công việc trong nhà, Việt đều phó thác cho chị. Đêm trước ngày lên đường, Chiến lo toan thu xếp chu đáo việc nhà, từ Út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má, bàn bạc với em một cách trang nghiêm còn Việt thì vô tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”, vừa nghe vừa chụp một con đom đóm úp trong lòng tay rồi ngủ quên lúc nào không biết.
Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con, “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị trước những lới tán tỉnh đùa tếu của anh em. Việt bị thương nằm lại ở chiến trường, đến khi gặp được đồng đội thì cũng giống hệt như thằng Út em ở nhà “khóc đó rồi cười đó”,…
Tuy vẫn còn có vẻ hồn nhiên, vô tư nhưng Việt cũng thật đường hoàng, chững chạc trong tư thế của người chiến sĩ trẻ dũng cảm, kiên cường. Dòng máu nóng chảy trong người Việt là dòng máu gia truyền của những con người gan góc, không bao giờ biết sợ trước sự bạo tàn. Cho nên, còn bé tí mà Việt đã dám xông thẳng vào thằng giặc đã giết hại cha mình.
Việt đã nằng nặc đôi đi tòng quân để trả thù cho ba má. Khi xông trận, Việt đã chiến đấu rất dũng cảm, đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch. Và đến khi bị trọng thương, một mình nằm giữa chiến trường, hai mắt không còn nhìn thấy gì, toàn thân đau điếng và rỏ máu, người thì khô khốc đi vì đói khát, Việt vẫn ớ trong tư thế chờ tiêu diệt giặc: “Tao sẽ chờ mày. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày.”. Có thể nói, hành động giết giặc để trả thù nhà, đền nợ nước đã trở thành một trong những thước đo quan trọng nhất về phẩm cách con người của nhân vật Nguyễn Thi.
Đọc Những bứa con trong gia đình, không ai có thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm: “Chị Chiến ra đứng giữa sân… rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập con lại đưa má về. Việt khiêng trước.
Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lần đầu tiên Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai”. Trong cái không khí vô cùng thiêng liêng ấy, con người ta bỗng thấy mình thành một người khác, trưởng thành và khôn lớn hơn.
Một người hồn nhiên, vô tư như Việt, vào chính chính giờ khắc này mới thấy “thương chị lạ”, mới thấy rõ lòng mình và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ như có hình, có khối, có trọng lượng cụ thể đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa biết bao ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương,…
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình có một dòng sông truyền thống gia đình liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho đến đời chị em Chiến, Việt. Sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Truyện có bút pháp nghệ thuật già dặn, điêu luyện được thể hiện qua giọng trần thuật, trần thuật qua hồi tưởng của nhân vật, miêu tả tâm lí và tính cách sắc sảo, ngôn ngữ phong phú, góc cạnh và đậm chất Nam Bộ.
Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài văn mẫu số 2
Nguyễn Thi (1928 - 1968) tên thật là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở xã Hải An, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định, ông vào Nam sinh sống từ năm 1943, tham gia cách mạng năm 1945. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, công tác tại tòa soạn tạp chí Văn nghệ Quân đội và sáng tác dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn. Năm 1962, ông tình nguyện trở về Nam, công tác tại Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam. Thực tế chiến đấu nóng bỏng của chiến trường là nguồn cảm hứng vô tận để ông sáng tác bút kí, truyện ngắn và tiểu thuyết với bút danh Nguyễn Thi.
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu của văn nghệ giải phóng miền Nam thời kì đánh Mĩ, xứng đáng với danh hiệu nhà văn của người nông dân Nam Bộ. Tác phẩm của Nguyễn Thi bắt nguồn từ hiện thực chiến đấu nóng bỏng, ác liệt của chiến tranh, nhưng vẫn đằm thắm chất trữ tình.
Nguyễn Thi viết được nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết… Sau khi hi sinh, các sáng tác của ông được sưu tập và in trong Truyện và kí Nguyễn Thi, xuất bản năm 1978; Nguyễn Ngọc Tấn - Nguyễn Thi toàn tập (4 quyển) xuất bản năm 1996. Năm 2000, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Những đứa con trong gia đình là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi.
Truyện được viết trong những ngày chiến đấu gian khổ, ác liệt nhất của chiến trường miền Nam. Qua truyện, tác giả thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ và khẳng định: lòng yêu nước, căm thù giặc, tình cảm gia đình thiêng liêng là sức mạnh tinh thần to lớn của họ trong công cuộc chống Mĩ cứu nước.
Truyện kể về hai chị em trong một gia đình có thù sâu với giặc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Chiến và Việt đã gửi lại nhà cửa, ruộng vườn cho người chú để cùng tham gia bộ đội, trực tiếp cầm súng trả thù nhà, đền nợ nước. Đoạn trích nằm ở phần giữa của truyện, kể về tình huống đặc biệt của nhân vật Việt. Trong một trận đánh ác liệt, anh bị thương nặng và lạc đơn vị. Việt ngất đi tỉnh lại nhiều lần, ranh giới giữa sự sống và cái chết rất mong manh.
Nhưng cũng chính vì thế mà kí ức sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Việt nhớ má, nhớ đồng đội, nhớ những giây phút không thể nào quên trước khi nhập ngũ của hai chị em. Những hình ảnh về con người và cảnh vật quê hương hiện lên rõ ràng trong tâm tưởng của Việt.
Đoạn trích có thể chia làm hai cảnh, cảnh một: Tác giả kể về tình huống và tâm trạng của Việt lúc bị thương. Cảnh hai: Việt nhớ lại chuyện hai chị em tranh nhau xin nhập ngũ và sau đó cùng thu xếp việc nhà để lên đường đi chiến đấu. Ở cảnh một, lần thứ tư tỉnh lại, trong kí ức Việt hiện lên những kỉ niệm vui buồn về người mẹ thân yêu luôn đùm bọc, che chở cho các con: Má đang bơi xuồng, má sẽ ghé lại, xoa đầu Việt, đánh thức Việt dậy, rồi lấy xoong cơm đi làm đồng để ở dưới xuồng lên cho Việt ăn… Cả chị cả em cùng nhớ đến má. Hình như má cũng đã về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?
Trong những đoạn khác, Nguyễn Thi chọn những chi tiết điển hình hàm chứa nhiều ý nghĩa để khắc họa hình tượng người phụ nữ một tay bồng con, một tay cắp rổ đi theo thằng giặc đòi đầu chồng, hoặc hiên ngang đối đáp với kẻ thù mà hai bàn tay to bản vẫn phủ lên đầu đàn con đang nép dưới chân. Mỗi lần bọn lính bắn dọa, mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông, vượt biển…
Đó là hình ảnh của người phụ nữ miền Nam gan góc, kiên cường, yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc và rất mực thương chồng thương con. Cuộc sống lam lũ vất vả, chồng chất đau thương nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng, vượt qua để nuôi con, đánh giặc.
Hình ảnh chú Năm hiện lên với những phẩm chất tiêu biểu của dòng tộc, gia đình. Giữa lúc anh cán bộ huyện đang phân vân không biết giải quyết thế nào trước tình cảnh hai chị em Chiến, Việt giành nhau ghi tên nhập ngũ thì chú Năm đứng ra bảo lãnh cho cả hai: Từ dưới sân, chủ Năm bước lên. Chú nheo mắt nhìn chị em Việt, rồi nói với anh cán bộ:
– Tôi xin có một câu với đồng chí huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta tính theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong.
Chú Năm cẩn thận ghi chép đầy đủ tội ác dã man của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên vào một cuốn sổ truyền thống. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú Năm bàn giao cuốn sổ cho hai chị em:
Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non. Con nít chúng bây kì đánh giặc này khôn hơn chú hồi trước - Chú cười, đưa mấy ngón tay cứng còng chùi mắt. Đây rồi tao giao cuốn sổ gia đình cho chị em bây. Gọi là giao vậy chớ đưa cho bây rồi bây lội đùng đùng qua sông là hư hết. Gọi vậy chớ tao vẫn giữ, tao sẽ ghi cho hai đứa bây từng ngày
Cuốn sổ tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì đặc biệt lớn bởi nó vừa biểu dương công trạng của từng thành viên, vừa là một tấm bia căm thù, vừa thể hiện quyết tâm đánh giặc của một đại gia đình. Trước kia, cuốn sổ do thế hệ cha chú giữ gìn và ghi chép, nay con cháu đã trưởng thành, chú Năm bàn giao lại cho thế hệ trẻ viết tiếp.
Vì vậy, cuốn sổ cũng chính là câu chuyện về cha con, chú cháu cùng đánh giặc để giải phóng quê hương. Điều đó thể hiện một cách giản dị mà sâu sắc quy luật phổ biến của lịch sử Việt Nam, quy luật của sức sống Việt Nam: Đánh đuổi giặc ngoại xâm đã trở thành sự nghiệp chung của nhiều thế hệ.
Là một nông dân chất phác và giàu tình cảm, mỗi khi làm xong một việc, tâm hồn chú Năm lại lâng lâng bay bổng, dạt dào cảm xúc. Chú gửi gắm tình cảm tha thiết của mình vào tiếng hò, tiếng hát quen thuộc của quê hương. Lúc hai chị em Chiến, Việt chuẩn bị ra trận, chú hoàn toàn tin rằng các cháu đã đủ sức gánh vác việc lớn của xã hội. Trong lòng vui vẻ, chú cất lên tiếng hò thay cho lời nhắn nhủ, lời thề:
Không phải giọng hò trong trẻo trong đêm bay ra hai bên bờ sông, rồi dội lại trên cái ghe heo chèo mướn của chú. Câu hò nổi lên giữa ban ngày, bắt đầu cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi kéo dài, từng tiếng một vỡ ra, nhắn nhủ, tha thiết, cuối cùng ngắt lại như một lời thề dữ dội.
Nhân vật Chiến tuy không được tác giả miêu tả nhiều như nhân vật Việt nhưng vẫn hiện lên sinh động trong tâm trí người đọc. Chiến là hình ảnh của một cô gái Nam Bộ đảm đang, vị tha, nhân hậu. Những gì quen thuộc, tiêu biểu trong phẩm chất đáng quý của người mẹ hầu như đã để lại ấn tượng sâu đậm trong cô con gái có cái tên rất con trai là Chiến.
Bởi thế nên mỗi khi nghe chị Chiến nói, Việt lại hình dung ra má và thấy chị sao mà giống má đến thế! Điều đó làm cho Việt bùi ngùi nhớ má và càng thương chị hơn. Hai chị em tuy có hai tính cách khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ đều ngoan ngoãn, hiếu thảo, biết gìn giữ và phát huy truyền thống cách mạng của gia đình, dòng họ, láng xóm, quê hương.
Trong tác phẩm, Việt là nhân vật được nói đến nhiều nhất. Việt vừa có những nét riêng dễ mến của một cậu con trai mới lớn như hồn nhiên, hiếu động; vừa có tính cách của một chiến sĩ dũng cảm, kiên cường. Ở cảnh một, nhà văn đã để cho nhân vật Việt xuất hiện trong tình huống hoàn toàn đơn độc giữa trận địa vắng lặng đến ghê người sau cuộc giao tranh và giữa sự rình rập của hiểm nguy, của cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Nguyễn Thi đã viết thật hay, thật cảm động về cái cảm giác một mình bật lên một cách rõ ràng nhất, mênh mông nhất của chàng tân binh trơ trọi một mình, lại bị thương nặng, hai mắt không còn nhìn thấy gì, sức đã cạn vì đói khát. Ngón tay Việt đau không còn kéo nổi cò bấm súng. Việt lết đi được một đoạn cũng là cả một kì công. Anh ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Ở trạng thái như thế, người ta có thể nghĩ gì?
Chắc chắn là sẽ nhớ lại những kỉ niệm vui buồn thân thiết nhất đã thực sự làm nên đời sống tinh thần của mình. Vì thế, với việc để nhân vật Việt nhớ đến những đồng đội, người thân, tác giả đã khẳng định rằng gia đình là cội nguồn sức mạnh của con người và truyền thống gia đình là thực sự thiêng liêng:
…Khi Việt cảm thấy không còn bò đi được nữa, khi những hình ảnh thân yêu thường kéo đến rất nhanh rồi cũng vụt tan biến đi rất nhanh chỉ vì một cành cây gãy, một giọt mưa rơi trên mặt, hoặc một tiếng động nhỏ của ban đêm. Việt muốn chạy thật nhanh, thoát khỏi sự vắng lặng này, về với ánh sáng ban ngày, gặp lại anh Tánh, níu chặt lấy các anh mà khóc như thằng út em vẫn níu chân chị Chiến, nhưng chân tay không nhấc lên được.
Bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt, kéo theo đến cả con ma cụt đầu vẫn ngồi trên cây xoài mồ côi và thằng chỏng thụt lưỡi hay nhảy nhót trong những đêm mưa ngoài vàm sông, cái mà Việt vẫn nghe các chị nói hồi ở nhà, Việt nằm thở dốc…
Có một chi tiết khá thú vị là đánh giặc Việt không sợ nhưng vẫn rất sợ ma. Tuy mới nhập ngũ nhưng Việt tỏ ra là một chiến sĩ thông minh, phân biệt rõ tiếng súng của ta, tiếng súng của giặc; phán đoán được tình huống của trận đánh: Một loạt đạn súng lớn văng vẳng dội đến ầm ĩ trên ngọn cây. Rồi loạt thứ hai… Việt ngóc dậy. Rõ ràng không phải tiếng pháo lễnh lãng của giặc.
Đó là những tiếng nổ quen thuộc, gom vào một chỗ, lớn nhỏ không đều, chen vào đó là những dây súng nổ vô hồi vô tận. Súng lớn và súng nhỏ quyện vào nhau như tiếng mõ và tiếng trống đình đánh dậy trời dậy đất hồi Đồng khởi. Đúng súng của ta rồi! Việt muốn reo lên. Anh Tánh chắc ở đó, đơn vị mình ở đó. Chà, nổ dữ, phải chuẩn bị lựu đạn xung phong thôi! Đó, lại tiếng hụp hùm… chắc là một xe bọc thép vừa bị ta bắn cháy. Tiếng súng nghe thân thiết và vui lạ.
Tuy đang lâm vào tình huống hiểm nghèo nhưng Việt vẫn hướng về đồng đội, tin tưởng vào chiến thắng: Những khuôn mặt anh em mình lại hiện ra… Cái cằm nhọn hoắt ra của anh Tánh, nụ cười và cái nheo mắt của anh Công mỗi lần anh động viên Việt tiến lên… Việt vẫn còn đây, nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng, ngón cái còn lại vẫn sẵn sàng nổ súng. Các anh chờ Việt một chút. Tiếng máy bay vẫn gầm rú hỗn loạn trên cao, nhưng mặc xác chúng. Kèn xung phong của chúng ta đã nổi lên. Lựu đạn ta đang nổ rộ…
Đối mặt với cái chết, Việt cố gắng tìm về với cuộc sống: Việt đã bò đi được một đoạn, cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo. Việt cũng không biết rằng mình đang bò đi nữa, chính trận đánh đang gọi Việt đến. Phía đó là sự sống. Tiếng súng đã đem lại sự sống cho đêm vắng lặng. Ở đó có các anh đang chờ Việt, đạn ta đang đổ lên đầu giặc Mĩ những đám lửa dữ dội, và những mũi lỗ nhọn hoắt trong đêm đang bắt đầu xung phong…
Đời người lính chiến, giữa hi sinh tính mạng và chịu đựng khó khăn gian khổ hoặc đau đớn về thể xác thì hi sinh tính mạng dễ chấp nhận hơn nhiều. Đoạn văn kể về nghị lực phi thường của Việt là khúc ca ca ngợi tinh thần dũng cảm của người chiến sĩ giải phóng quân trẻ tuổi.
So sánh nhân vật Chiến và Việt, ta thấy điểm giống nhau của hai chị em là đều có một tình yêu quê hương, đất nước và thái độ căm thù giặc sâu sắc. Tuy là những đứa trẻ mới lớn nhưng Chiến và Việt đã khắc sâu trong tâm khảm mối thù không đội trời chung với những kẻ đã giết hại ba má và đồng bào mình. Từ đó, hai chị em xác định mục đích của cuộc đời mình là phải trả thù bằng được cho ba má, cho quê hương.
Chính vì mối thù này mà cả hai chị em đều nung nấu quyết tâm đánh giặc. Mối thù ấy dường như thôi thúc họ lớn nhanh hơn. Khi nghe Chiến kể rằng chú Năm nói lần này hai chị em ra đi chiến đấu, thù ba má chưa trả được mà trở về thì chú chặt đầu, Việt nói tỉnh queo: Chị có bị chặt đầu thì chặt chớ chừng nào tôi mới bị. Còn Chiến thì cũng khẳng khái nói: Tao đã thưa với chú Năm rồi. Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!
Tuy nhiên, sự độc đáo và hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Thi chính là ở chỗ ông đã có cách miêu tả khác nhau nên Chiến và Việt hiện ra với cá tính riêng không thể lẫn. Hơn em một tuổi nhưng Chiến luôn tỏ ra là một người chị khôn lớn, đảm đang, việc gì cũng nhận lãnh về mình. Ba má đã khuất, Chiến sớm ý thức được vai trò của người chủ gia đình. Chiến đã phải lớn vượt lên so với lửa tuổi để thay ba má lo liệu việc nhà, bảo ban các em.
Việt là em nên ỷ lại mọi việc cho chị, thường bắt chị phải chiều theo ý mình. Chiến nhường nhịn em trong mọi việc nhưng có một việc Chiến kiên quyết không nhường, ấy là ghi tên tòng quân. Nhưng tính cách của người chị thương em hết lòng cũng thể hiện ở chính điều đó. Thực ra, đây là một đức hi sinh lớn, một sự nhường nhịn lớn. Chiến muốn giành về mình phần nguy hiểm để em được bình yên.
Chiến biết là Việt chưa lo toan nổi việc nhà, nhưng nhà chỉ có hai chị em nên Chiến vẫn đem việc nhà ra bàn với em một cách dân chủ. Tuy vậy, Chiến đã dự định từ trước, mọi việc đã được sắp xếp đâu ra đấy, khiến cho Việt cảm thấy chị mình chín chắn, già dặn giống in như má. Còn Việt, trong khi nghe chị nói thì lại để mắt đến mấy con đom đóm và trong lúc chị Chiến vẫn nói thì Việt đã lăn ra ngủ từ lúc nào.
Câu chuyện trao đổi giữa hai chị em cũng bộc lộ phẩm chất đáng quý của tuổi trẻ miền Nam thời đánh Mĩ: đã ra đi là quyết tâm chiến đấu và chiến thắng. Điều đáng quý của hai chị em là rất thương yêu, lo lắng cho nhau và cả hai đều nhớ đến má: Hình như má cũng về đâu đây. Má biến theo ánh đom đóm trên nóc nhà hay đang ngồi dựa vào mấy thúng lúa mà cầm nón quạt?
Đêm nay, dễ gì má vắng mặt, má cũng phải về dòm ngó coi chị em Việt tính toán việc nhà ra làm sao chớ? Chị em Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống cách mạng, cho nên dù cha mẹ đã khuất nhưng lời dạy của cha mẹ vẫn thấm sâu vào tâm trí, nhắc nhở các con trong từng suy nghĩ, từng lời nói và hành động.
Trước lúc lên đường Việt đi câu ít con cá về làm bữa cơm cúng má trước khi dời bàn thờ sang nhà chú… Cúng mẹ và cơm nước xong, mấy chị em, chú cháu thu xếp đồ đạc dời nhà. Người đọc không thể quên đoạn văn rất cảm động tả cảnh hai chị em Chiến, Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm: Chị Chiến ra đứng giữa sân, kéo cái khăn trên cổ xuống, cũng xắn tay áo để lộ hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng, rồi dang cả thân người to và chắc nịch của mình nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên.
Việt ghé vào một đầu. Nào, đưa má sang ở tạm bên nhà chú, chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về. Việt khiêng trước. Chị Chiến khiêng bịch bịch phía sau. Nghe tiếng chân chị, Việt thấy thương chị lạ. Lân đầu tiên Việt thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang bưng khác.
Chỗ hay nhất của đoạn văn trên có lẽ là cái không khí thiêng liêng làm thay đổi cả cảnh vật lẫn con người. Con đường quen thuộc bỗng có thêm mùi hoa cam thoảng lại từ chân vườn. Còn đối với Việt, cái không khí thiêng liêng ấy khiến anh trở thành người lớn. Lần đầu tiên, Việt hiểu rõ lòng mình, bỗng thương chị lạ và cảm thấy rất rõ mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Đây là một chi tiết nghệ thuật cô đọng, dồn nén, chất chứa rất nhiều ý nghĩa, vừa là hành động cụ thể, vừa có yếu tố tâm linh, vừa nặng trĩu căm thù, vừa chan chứa yêu thương…
Nếu để ý, người đọc sẽ thấy tác giả còn tô đậm sức vóc của hai chị em. Chiến thì hai bắp tay tròn vo sạm đỏ màu cháy nắng… dang cả thân người to và chắc nịch của mình… nhấc bổng một đầu bàn thờ má lên. Việt cũng ghé vào để khiêng. Nghĩa là thế hệ sau đã cứng cáp, trưởng thành. Những đứa con trong gia đình đã đủ sức cầm súng đánh giặc như thế hệ của cha mẹ mình.
Câu chuyện trong đoạn trích được trần thuật chủ yếu từ điểm nhìn của nhân vật chính, dựa theo dòng hồi tưởng đan xen với thực tại, vì thế mà đậm đà chất trữ tình và vô cùng sống động. Phẩm chất, tính cách nhân vật được khắc họa rõ nét. Trong kí ức nhân vật hiện lên rõ ràng từng kỉ niệm của quá khứ chưa xa. Đó là những ngày Việt được sống trong tình yêu thương của đồng đội, của những người thân yêu trong gia đình.
Quá khứ này tạo điều kiện cho nhà văn có thể đi sâu vào thế giới nội tâm phong phú của nhân vật. Kết cấu của truyện không phụ thuộc vào trật tự thời gian. Từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường, tác giả đã gợi ra những dòng hồi tưởng về quá khứ từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự nhiên. Dưới ngòi bút của nhà văn Nguyễn Thi, nhân vật nào cũng sống động và có cá tính rõ nét. Nhờ ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ mà tác phẩm chân thực và sinh động.
Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình vừa giàu tính hiện thực vừa giàu tính trữ tình. Những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật Việt được tác già thể hiện bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc rất đúng với tâm trạng của một chàng trai mới lớn, xa gia đình đi chiến đấu chưa được bao lâu. Điều đó phần nào phản ánh phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ Giải phóng quân trong cảnh ngộ nguy hiểm và chết chóc của chiến trường.
Sự đau đớn do các vết thương trên thân thể gây ra không làm cho Việt khủng hoảng tinh thần mà ngược lại, anh vẫn bình tĩnh sống với kí ức tuổi thơ gắn liền bao kỉ niệm vui buồn và tìm thấy ở đó nguồn sức mạnh lạ thường. Nhà văn Nguyễn Thi miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người chiến sĩ không phải qua chiến công mà là qua nghị lực phi thường và đời sống tình cảm phong phú của họ.
Chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng thời đánh Mĩ còn được tác giả khai thác ở đời sống tinh thần giản dị mà cao đẹp của thế hệ trẻ miền Nam. Hai chị em Chiến, Việt là những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo và trong chiến đấu họ lại là những chiến sĩ vô cùng kiên cường, dũng cảm.
Thông qua truyện, Nguyễn Thi cũng kín đáo đề cập tới một vấn đề có tính chất xã hội: Gia đình là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành nhân cách. Những người con được giáo dục tốt trong gia đình sẽ trở thành những thành viên tích cực và hữu ích cho xã hội.
Ở từng nhân vật đều có sự gắn bó sâu nặng giữa tình cảm gia đình và tình cảm yêu nước, yêu cách mạng, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc, thà hi sinh tất cả quyết giành độc lập tự do. Điều đó đã tạo nên sức mạnh to lớn của con dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp chống Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài văn mẫu số 3
Nguyễn Thi là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông được mọi người gọi với cái tên rất gần gũi “Nhà văn của người dân Nam Bộ”. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông.
Trong những tác phẩm đặt sắc ấy nổi lên truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” (Năm 1978). Truyện viết về những ngày chiến đấu gian khổ, khó khăn của chiền trường miền Nam. Qua đó, người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người dân Nam Bộ: tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mĩ ác liệt dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Thi.
Thật vậy, nhan đề “Những đứa con trong gia đình” mang một hàm ý sâu xa của tác giả. Truyện kể về những đứa con trong gia đình có truyền thống cách mạng là gia đình hai chị em Chiến và Việt. Gia đình ấy cũng chính là hình ảnh thu nhỏ của miền Nam Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ..
Nguyễn Thi đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo: Việt - một anh giải phóng quân sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, ông nội và cha mẹ anh đều bị chết dưới tay kẻ thù. Chính mối thù nợ nước, nợ nhà không đội trời chung đó đã thúc đẩy anh tham gia cách mạng. Trong một trận đánh, Việt bị thương, lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại rất nhiều lần. Mỗi lần ngất đi tỉnh lại, quá khứ và hiện tại lại đan xen nhau trong tiềm thức của anh.
Ở lần tỉnh lại thứ 4, kí ức về mẹ hiện về. Việt nhớ lại cảnh hai chị em tranh nhau đi tòng quân. Việt đòi đi nhưng chị Chiến không cho. Anh nhờ chú Năm giúp đỡ. Chú đồng ý cho hai chị em Việt đi tòng quân. Chị Chiến thu xếp mọi công việc trước khi hai chị em lên đường… Trở về với thực tại, sau 3 ngày tìm kiếm, anh Tánh và đồng đội đã đưa Việt về điều trị tại một bệnh viện dã chiến. Sức khỏe Việt dần hồi phục.
Có thể thấy, truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật Việt. Nguyễn Thi đã để cho đứa con tinh thần của mình hồi tưởng lại đứt quãng sau mỗi lần anh ngất đi tỉnh lại ở chiến trường. Tuy dòng cảm xúc không được trôi chảy mạch lạc song ở mỗi lần Việt tỉnh dậy lại là một câu chuyện chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Để hiểu rõ hơn về tác phẩm này, chúng ta sẽ phân tích từng nhân vật một.
Ở mỗi nhân vật mà nhà văn nhắc tới đều có một biểu tượng riêng về tình yêu quê hương, tình yêu đất nước. Trong đó, tình yêu gia đình làm nền tảng để cho gia đình Việt tuôn chảy một tình yêu bất diệt với quê hương. Những thành viên trong gia đình đều rất gan góc, dũng cảm, có lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ giàu tình nghĩa thủy chung, son sắt với quê hương, với cách mạng. Mỗi một nhân vật trong truyện đều được Nguyễn Thi tả rất đặc sắc, hấp dẫn người đọc.
Trước hết, nhân vật Việt được coi là trung tâm của câu chuyện hiện lên thật chân thực và sắc nét. Anh là đứa con tiêu biểu của gia đình. Việt là một chiến sĩ giải phóng quân sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân giàu truyền thống cách mạng. Khi những người thân bị chết dưới tay giặc đều là những người việt yêu úy nhất: ông nội, ba mẹ. Gia đình chỉ còn lại chị Chiến, chú Năm, thằng út em với người chị nuôi đi lấy chồng xa.
Việt hăng hái tham gia tòng quân giết giặc trả thù cho người thân, bảo vệ quê hương. Ở Việt ta luôn thấy được đó là “cậu tư” gan gạ, muốn lập nhiều chiến công như chị. Qua dòng hồi ức của Việt khi ngất đi tỉnh lại, ta còn thấy được, anh là một người tính tình trẻ con, vô tư, nghịch ngợm của tuổi mới lớn. Anh hay tranh giành với chị mình chuyện bắn tàu giặc Mĩ trên sông Định Thủy, anh có hành động “đá trái dừa rụng xuống mương” khi chị không cho đi tòng quân, sợ câu chuyện “con ma cụt đầu” mà chị hay kể.
Đặc sắc nhất là cảnh hai chị em thu xếp mọi thứ để lên đường tòng quân. Khi ấy, Việt chỉ “lăn kềnh ra ván cười khì khì” trong khi chị Chiến lo toan mọi thứ. Cảnh hai chị em khiêng bàn thờ ba má sang nhà chú Năm là một hành động chứng tỏ Việt đã trưởng thành, sẵn sàng đối đầu với quân địch. Cái cách Việt thương chị mình cũng rất đáng yêu “ Giấu chị như giấu của riêng”…
Ta còn bắt gặp một hình ảnh Việt gan dạ, quả cảm khi đi bộ được hai năm, anh đã dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của địch hay lúc anh bị thương, lạc đồng đội, anh không hề sợ mà vẫn rất bình tĩnh, với tư thế hội tụ đủ phẩm chất của người lính cụ Hồ, anh “đạn đã lên nòng, ngón tay còn lại sẵn sàng nổ súng.
Có thể thấy, Nguyễn thi đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Việt - đứa con cưng tình thần của ông với những tính cách đáng yêu, dễ mến, vô tư đời thường, ga dạ quả cảm trong chiến đấu. Nhà văn tiếp tục lia ống kính của mình để khắc họa hình tượng nhân vật Chiến - chị của Việt - một người con gái cũng giống như Việt trải qua hoàn cảnh bi thương nhưng sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi.
Ở chị ấy được thừa hưởng những nét đẹp từ người mẹ. Đó là người con gái gan dạ, đảm đang, tháo vát nhưng cũng căm thù giặc sâu sắc. Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu bộ đội nữ địa phương. Chị chiến đấu dũng cảm, coi cái chết cũng chỉ như “chết giấc” với câu nói bất khủ “Nếu giặc còn thì tao mất” và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương. Chiến vừa làm ba, vừa làm mẹ, vừa làm chị để chăm lo, lấp đầy khoảng trống cho các em.
Trước khi cùng em đi bộ đội, mọi chuyện trong nhà đã được cô sắp xếp đâu vào đó khiến cho chú Năm cũng phải hết sức ngạc nhiên mà thốt lên: “Khôn! Việc nhà nó thu được gọn thì việc nước nó mở được rộng, gọn bề gia thế, đặng bề nước non”. Câu nói của chú Năm thể hiện sự yên tâm của người đi trước đối với lớp người trẻ kế cận họ.
Việc cô ngăn không cho em đi tòng quân không phải vì sợ Việt tranh cướp công lao của cô mà cô hiểu rất rõ, với vai trò của người đi trước, co đã tham gai kháng chiến, cô hiểu rất rõ sự tàn khốc của chiến tranh nó ghê gớm đến nhường nào, cô sợ Việt bị thương. Qua đó, người đọc thấy được tình yêu ruột thịt máu mủ sâu sắc đến nhường nào. Nó là phương thuốc hữu hiệu nhất để gắn kết mỗi thành viên trong gia đình lại với gần nhau hơn.
Ta thấy Chiến hiện lên thật giản dị, thật đẹp dưới cái nhìn phác họa đầy lí tưởng của tác giả. Ở cô gái trẻ ấy hội tụ mọi vẻ đẹp của người con gái Việt Nam “đảm việc nước, giỏi việc nhà”. Chính những sự hi sinh thầm lặng mà lớn lao của người phụ nữ ấy đã góp phần vào thắng lợi của dân tộc.
Thật là thiếu xót nếu như không có nhân vật chú Năm. Chính chú Năm là hiện thân của truyền thống, là khúc thượng nguồn trong “dòng sông truyền thống” của gia đình Việt. Chú là người ghi lại tất cả những sự kiện diễn ra trong gia đình. Ở chú Năm hiện lên một hình ảnh người lao động chất phác nhưng giàu tình cảm. Chú cũng biết hò và Việt là nơi gửi gắm những câu hò của chú.
Chú Năm ghi chép cẩn thận và đầy đủ tội ác của giặc đối với dòng họ, gia đình mình và chiến công của các thành viên trong gia đình. Khi Chiến và Việt chuẩn bị lên đường, chú đã giao cuốn sổ cho hai chị em. Cuốn sổ đó tuy nhỏ nhưng rất ý nghĩa. Nó là thước phim ghi lại một cách chân thực, chi tiết nhất những chiến tích của gia đình và tội ác của quân giặc. Nó dấy lên lòng căm thù giặc, món nợ lớn nhất phải trả.
Cùng với chú Năm, má Việt cũng là hiện thân của truyền thống. Là người phụ nữ gan góc, rất mực thương chồng con và có lòng căm tù giặc sâu sắc. Mỗi lần bọ lính bắn dọa “mắt má lại sắc ánh lên nhìn lại bọn lính, đôi mắt của người đã từng vượt sông vượt biển”. Má Việt đã ngã xuống song hình ảnh người phụ nữ ấy luôn bất tử trong lòng các con.
“Những đứa con trong gia đình” đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước là một truyện ngắn đặc sắc bởi giọng văn trần thuật khắc họa miêu tả tâm lí nhân vật Chiến, Việt, Chú Năm…, Nguyễn Thi đã dựng nên một gia đình có truyền thống yêu nước sâu sắc, lòng căm thù giặc, mối thù nợ nước nợ nhà. Qua đó, tác giả giúp người đọc thêm đồng cảm với cảnh ngộ éo le, thêm yêu thương quý trọng gia đình, biết ơn công lao của những người cách mạng.
Tóm lại, truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” thể hiện rõ tài năng của Nguyễn Thi trên nhiều phương diện. Truyện không những phác họa thành công hình tượng của người con yêu gia đình, yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện tình yêu của chính tác giả vào những đứa con tinh thần của mình. Ông xứng đáng được coi là “Nhà văn của người dân Nam Bộ”.
Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài văn mẫu số 4
Nguyễn Thi - một con người tài hoa, sáng tác trên nhiều thể loại thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết,… Ngòi bút của tập trung chủ yếu vào những người dân Nam Bộ yêu nước mãnh liệt, có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tinh thần chiến đấu kiên cường. Những đứa con trong gia đình có thể coi là kết tinh phong cách nghệ thuật của ông. Tác phẩm hoàn thành vào tháng 2 năm 1966 - giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mĩ đang rất căng thẳng, ác liệt.
Tác phẩm được xây dựng dựa trên tình huống Việt - một chiến sĩ giải phóng quân bị thương, lạc đồng đội giữa cánh rừng cao su. Đây là trận đánh đầu tiên của Việt nhưng đã lập được chiến công vang dội: dùng thủ pháo tiêu diệt được một xe bọc thép và sáu tên Mĩ lẻ.
Anh chịu tổn thất nặng nề, ngất đi tỉnh lại nhiều lần. Mỗi lần tỉnh lại Việt lại có dòng hồi ức miên man về gia đình, về những kỉ niệm ngày xưa. Câu chuyện được kể lại là những dòng hồi ức đứt nối giữa những lần chợt ngất đi tỉnh lại của Việt. Xây dựng tình huống này, tác giả nhằm khẳng định tình cảm lớn lao bao giờ cũng bắt nguồn từ những gì gần gũi, bình dị nhất.
Việt bị thương trong một lần đánh giặc, cậu bị lạc đồng đội, bị ngất đi và tỉnh lại nhiều lần, trong những lần ấy, Việt nhớ về những kỉ niềm khi còn ở nhà, nhớ về cuốn sổ gia đình và những kỉ niệm trẻ thơ. Một cách rất tự nhiên tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật từ trần thuật về cuộc đời mình, khiến cho câu chuyện chân thực và giàu cảm xúc hơn.
Việt sinh ra trong một gia đình nông dân Nam Bộ rạng rỡ những chiến công và có nhiều đau thương mất mát. Cha của Việt bị chặt đầu, chỉ có ba mẹ con nhưng dám dắt díu nhau đi đòi lại đầu chồng, không hề run sợ trước những lời hăm dọa của kẻ thù. Không chỉ vậy, má của Việt cùng ông nội và thím Năm đều chết dưới sự tàn sát, bom đạn của kẻ thù. Gia đình anh hùng mà cũng đầy đau thương, mất mát. Đây đồng thời cũng là hoàn cảnh chung của những gia đình Nam Bộ lúc bấy giờ.
Việt là một người giàu tình cảm, luôn dành tình yêu thương sâu nặng nhất cho gia đình. Giữa lúc nằm một mình ở rừng, cái chết đang cận kề, nhiều lần ngất đi tỉnh lại, điều cậu nghĩ tới đầu tiên chính là gia đình, là má của mình, và trong những lần ấy cậu còn tưởng má mình đang ở quanh đâu đây. Và ngay cả đêm trước khi lên đường ra chiến trường, nhìn vào hình ảnh chị Chiến cậu cũng liên tưởng đến má.
Dù má đã mất, nhưng tình yêu thường dành cho má vẫn không bao giờ vơi cạn trong lòng Việt. Không chỉ dành tình yêu thương cho mẹ, mà Việt còn rất thương chị Chiến. Mẹ mất, chỉ có hai chị em nương tựa vào nhau, trong ngày khiêng bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm, nghe thấy những bước chân bình bịch của chị, cậu thương chị đến lạ, có lẽ đây là lần đầu tiên trong suốt bao năm cùng chung sống dưới một mái nhà, tình cảm ấy được biểu lộ một cách rõ ràng đến vậy.
Và một phản ứng vừa ngây ngô trẻ con mà cũng vô cùng đáng yêu của Việt ấy là khi ra chiến trường cậu giấu nhẹm chị mình, không bao giờ kể về chị với đồng đội, vì cậu sợ lỡ kể ra người ta sẽ lấy mất người chị thân yêu của cậu, cậu giữ lấy chị làm của riêng. Hành động, suy nghĩ tuy trẻ con nhưng lại cho thấy tình yêu thương sâu sắc Việt dành cho chị.
Không chỉ vậy, Việt còn có lòng căm thù giặc sâu sắc và luôn nung nấu quyết tâm trả thù. Gia đình Việt đã có biết bao người ngã xuống dưới sự tàn sát ghê rợn của kẻ thù: cha, mẹ, họ hàng, … bởi vậy lòng căm thù giặc càng trở nên mạnh mẽ, mãnh liệt hơn.
Ngay sau cái chết của má, ý nghĩ ấy thôi thúc cậu mãnh liệt hơn bao giờ hết, Việt tranh giành quyết liệt với chị Chiến để lên đường ra chiến trường, dù cậu còn nhỏ, vẫn chưa đủ tuổi nhưng ý chí, lòng quyết tâm vẫn không hề bị lay chuyển. Khi khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm, suy nghĩ trong tâm trí hai chị em: “…khi nào nước nhà độc lập chúng con lại đưa má về”. Lòng căm thù giặc chính là động lực mạnh mẽ nhất để Việt cũng như Chiến nêu cao quyết tâm đánh giặc, trả thù cho gia đình.
Ngoài mặt trận Việt là một người chiến sĩ hết sức gan góc, dũng cảm và vô cùng kiên cường. Mặc dù mới vào trận lần đầu tiên song với lòng dũng cảm, ý chí giết giặc cậu đã tiêu diệt được một xe bọc thép của kẻ thù và sáu tên giặc. Ngày cả khi bị thương thì tinh thần chiến đấu của Việt vẫn không hề giảm sút.
Mặc dù bị lạc đồng đội, mắt không còn nhìn rõ, chín đầu ngón tay gần như bị tê liệt, nhưng Việt không hề nao núng sợ hãi, anh vẫn lắng nghe từng chuyển động để phán đoán hành động của kẻ thù và ngón tay duy nhất còn lại vẫn nắm chặt vào cò súng, sẵn sàng chiến đấu. Việt luôn tâm niệm: “Bầu trời này có mày, mặt đất này có mày nhưng cánh rừng này có tao nếu mày giết tao thì tao sẽ giết mày”. Chỉ với một câu nói ấy thôi nhưng đã cho thấy sự hiên ngang, chủ động của Việt.
Dù trên chiến trường hết sức gan dạ, dũng cảm, nhưng trong cuộc sống đời thường cậu vẫn mang những nét hết sức dễ thương, hồn nhiên, vô tư của một đứa trẻ. Khi còn ở nhà, Việt luôn tranh giành, hay giận dỗi với chị Chiến. Ngay cả đêm trước khi lên chiến trường cậu cũng không thèm để tâm đến những gì chị nói và còn ngủ quên. Không chỉ vậy, tính cách trẻ con của Việt còn được biểu lộ ngay cả khi ở chiến trường cậu mang theo một chiếc ná thun và không bao giờ kể về chị mình với đồng đội. Dù gan góc, dũng cảm là thế, nhưng cậu có một nỗi sợ hết sức trẻ con ấy là sợ ma.
Bên cạnh nhân vật Việt, cũng không thể không nhắc đến chị Chiến. Chị Chiến là người chan chứa tình cảm cho gia đình, đầu tiên là tình yêu thương với má. Chị giống má như tạc, có lẽ là do ngưỡng mộ má, tự tạc mình theo má. Đồng thời chị cũng rất yêu thương Việt, chị luôn nhường nhịn em, duy chỉ có việc ra chiến trường đầy nguy hiểm là chị tranh giành với Việt.
Trong chị Chiến cũng có lòng căm thù giặc sâu sắc. Dù là một người con gái bé nhỏ, nhưng chị sẵn sang xung phong đi bộ đội. Khi khiêng bàn thờ ba má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù ho ba má…”, “mối thù thằng Mĩ có thể rờ thấy được”. Đêm trước ngày ra chiến trường: dặn em và cũng là dặn chính mình phải quyết tâm trả thù giặc bằng xong với về. Tự hứa: “Đã là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất, vậy à!”. Bằng những lời nói thật giản dị nhưng chất chứa lòng căm thù giặc sâu sắc của chị. Trong cuộc sống hàng ngày chị là một người con gái đảm đang, tháo vát. Trước khi đi, chị thu xếp việc nhà chu toàn: viết thư cho chị Hai, cho xã mượn nhà làm trường học;…
Xây dựng hai nhân vật Việt và Chiến, tác giả đã cho thấy lòng căm thù giặc, cùng ý chí quyết tâm đánh giặc cứu nước, lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng của những người con trong các gia đình nông dân Nam Bộ. Đồng thời cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Vẻ đẹp của hai nhân vật chính là bắt nguồn từ thế hệ trước. Gia đình Chiến có lòng dũng cảm và lòng căm thù giặc sâu sắc. Bên cạnh đó mỗi thế hệ lại mang những nét đẹp riêng, chú Năm luôn có ý thức gánh vác việc gia đình, tạo cơ hội cho các thế hệ sau được ra chiến trường trực tiếp cầm súng chiến đấu, lập chiến công trả thù.
Má Tư Năng, chồng mất, can trường bất khuất, một mình nuôi con. Thế hệ sau có Việt và Chiến với lòng căm thù giặc sâu sắc, khúc sông sau chảy mạnh hơn, đi xa hơn, đã hòa vào biển lớn. Truyền thống gia đình đã cho thấy sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Nghệ thuật trần thuật trong tác phẩm là một nét đặc sắc của tác phẩm. Tác phẩm được trần thuật từ ngôi thứ ba, người kể chuyện giấu mình, tạo nên tính trung thực, khách quan. Bên cạnh đó còn còn phải kể đến ngôn ngữ giản dị, đậm chất Nam Bộ đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Tác phẩm đã xây dựng hàng loạt chân dung anh hùng, mang trong mình lòng yêu nước và lòng căm thù giặc sâu sắc. Ở họ không còn là cá nhân anh hùng đơn lẻ mà là tập thể, gia đình anh hùng. Qua đó nhà văn cũng khẳng định sự gắn bó, hòa quyện giữa tình cảm gia đình với tình yêu đất nước, truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Phân tích tác phẩm Những đứa con trong gia đình – Bài văn mẫu số 5
Viết về người lính là đề tài muôn thủa của nhiều nhà văn, một trong những tác phẩm đó là tác phẩm “ Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, tác phẩm đề cập đến người lính cách mạng, những năm tháng chiến đấu khó khăn trên chiến trường.
Những Đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi là một trong những tác phẩm đề cập đến người lính trong xã hội, nhân vật xuất hiện trong tác phẩm là những người lính cách mạng, nhân vật Việt, Chiến là nhân vật điển hình trong tác phẩm này, biểu hiện là những người anh hùng, sẵn sàng ra mặt trận đấu tranh để giành được quyền độc lập, tự do cho dân tộc.
Tác phẩm là dòng hồi tưởng của nhân vật Việt, trong khi tham gia đấu tranh đã bị thương ở nơi chiến trường. Qua cách xây dựng hình tượng của tác phẩm, nhà văn đã dùng những nét liên tưởng để diễn ra dòng trí nhớ và nhân vật. Nhớ những năm tháng tuổi thơ, nhớ năm tháng đấu tranh, nhớ năm tháng sống ở vùng quê…
Mỗi nhân vật đều mang một dòng liên tưởng đến nhân vật Việt, hình ảnh đó biểu hiện qua các thành viên trong gia đình: “ba, má, chị Chiến, chú Năm. Những con người này đều có điểm chung là nói đến những người có lý tưởng, họ luôn hết mình vì cách mạng, luôn chiến đấu vì dân tộc, quyền lợi.
Những người này có ước nguyện, họ mong muốn trả thù nước, giết giặc, họ cùng nhau đi tòng quân, để cùng nhau chiến đấu. Họ là những người yêu gia đình, chi tiết khiêng bàn thờ má gửi sang chú năm đã thể hiện tình nghĩa đối với cha mẹ của mình. Không quên nghĩa vụ với đất nước, không quên tình nghĩa với người cha mẹ của mình.
Cùng ý nghĩ khi khiêng bàn thờ sang gửi nhà chú Năm để chị em đi đánh giặc. Khi đi chiến đấu, Chiến là biểu hiện là một đội trưởng gương mẫu, luôn anh dũng chiến đấu, biểu hiện đó là Việt phá được xe tăng của địch trong một trận giáp lá cà. Dù bị thương nhưng Việt vẫn kiên cường chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu. Những nhân vật xuất hiện trong bài là những người chiến sĩ kiên cường.
Trong lúc bị thương Việt đã mơ tưởng đến những năm tháng đã qua, những năm tháng tuổi thơ, tranh dành đi bắt ếch, và những năm tháng đánh giặc, giành nhau đi tòng quân của hai chị em Việt Chiến. Cả hai nhân vật này đều có tấm lòng yêu thương cha mẹ, có tấm lòng căm thù quân địch sâu sắc. Với ý chí quyết tâm trả thù nước, đánh giặc để giành được độc lập tự do, đây là động lực to lớn đây là ý chí quyết tâm của những người chiến sĩ.
Họ là người lính có tinh thần gan góc, lập được nhiều chiến công to lớn trong các cuộc chiến tranh, ý chí đó được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm. Tuy nhiên mỗi người lại có những nét tính cách đặc biệt trong tác phẩm. Chiến là người phụ nữ biết chịu đựng, gánh vác mọi việc trong cuộc chiến.
Việt là người anh dũng, tranh đi tòng quân. Là người chiến sĩ kiên cường. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập đến tinh thần chiến đấu của những người lính trong chiến đấu, đó là nổi bật cho tinh thần của người lính dũng cảm, vượt qua bao khó khăn trong cuộc sống, bất chấp khó khăn vẫn cố gắng phấn đấu vì sự nghiệp với dân tộc.
Nguyễn Thi đã thể hiện xuất sắc được tinh thần chiến đấu của những người lính cách mạng. qua đó nói lên tình cảm gia đình của những người lính, chi tiết đắt giá thể hiện tình cảm của những người đối với cha mẹ, là hình ảnh khênh bàn thờ của Việt Chiến khi đem gửi chú Năm.
Với những chi tiết đặc sắc, tác phẩm của ông đã được xếp vào là một trong những tác phẩm có giá trị to lớn trong việc tố cáo tội ác của kẻ thù và đề cap tình yêu của con người.