I. GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
1.
Nam Cao sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Nam Hà). Gia đình Nam Cao sống rất chật vật, trong số anh em chỉ có Nam Cao được ăn học. Học hết phổ thông trung học, vì ốm nên ông không thi đậu. Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn làm thư ký cho một cửa hiệu may. Sau trận ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng, học lại và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu nên không có việc làm. Sau đó người làng mở trường tư ở Hà Nội, cần một chân dạy có bằng trung học, Nam Cao được mời dạy. Ðược ít lâu trường bị đóng cửa vì bị Nhật chiếm làm chỗ nuôi ngựa. Nam Cao sống vất vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ Cách mạng và tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào Cách mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh chiếm Phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian, trước khi được điều lên công tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.
Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến với văn học, Nam Cao làm một số bài thơ lãng mạn và viết những truyện tình thơ mộng. Ở thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được một cái nhìn đúng đắn về cuộc sống.
Những áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức… Tất cả chất liệu ấy có lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc:
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời
Nhưng Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường sớm nhường chỗ cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh tật, công ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve “Nghệ thuật không thể là…”. Nam Cao tìm đến sự thật với tấm lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời đau khổ. Với những rung động xót xa đến cháy lòng trước bao ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự thật của cuộc đời và của lòng người.
Nam Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời lầm than, đau khổ và chính cái làng quê ấy đã đi vào những trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nghiệm cho thân phận tầng lớp và của riêng mình
Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi bị khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào Việt minh ở địa phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được bầu là chủ tịch xã. Ít lâu sau, Nam Cao được điều lên công tác ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn báo Tiền phong, cơ quan của hội. Năm 1946, theo đoàn quân Nam tiến vào vùng Nam Trung Bộ. Trở về, Nam Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Tháng 11/1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba, Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình), Nam Cao ngã xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết lớn về quê hương, chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn chỉnh tác phẩm Làng.
2.
Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái tật “hãi người” và Cái mặt không chơi được (tên một truyện ngắn) của mình. Con người "mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè, mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản kháng mãnh liệt”.
Trước Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất đắc chí. Ốm yếu thất nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề văn và dạy tư là hai cái nghề bạc bẽo khi đó.
Nam Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn trước Cách mạng, Nam Cao hầu như không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài mà bước vào làng văn lại chật vật và bị đối xử bất công như Nam Cao.
Nam Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ “Tài cao phận thấp chí khí uất” (Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng “phản kháng mãnh liệt” của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất mãn cá nhân mà hằn học, thù nghét “cả giống người”. Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong là một tâm hồn chan chứa yêu thương.
3.
Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó trở đi trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng thân thiết. Hình ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.
Là một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu cực. Nhưng cái đáng quý ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt mình, vượt khỏi cuộc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.
4.
Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam Cao
Nam Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui… đăng báo từ năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư sản đương thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát ly. Thơ của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú ý đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát của mình trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc nghèo bị phụ tình đã giết chết người tình rồi tự sát khi biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).
Thời kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao như trong truyện ngắn Nghèo, Ðui mù, Một bà hào hiệp. Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng định ở truyện ngắn Chí Phèo.
Trong số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn chương nhà văn luôn suy nghĩ “Sống và viết” Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm của thứ văn thơ “thơm tho” đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam Cao từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát ly hưởng lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những người nghèo khổ ruột thịt. Trong Giăng sáng, Nam Cao đòi nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống lầm than chứ không phải là "món giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những chiếc ghế xích đu nhún nhảy" (Giăng sáng) là một tuyên ngôn cảm động, đanh thép của quan điểm "nghệ thuật vị nhân sinh”, cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.
Nam Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết “óc đầm đìa thuốc phiện”, “suốt đời nhìn trăng”, nhân vật lý tưởng của họ là những cô gái nhí nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác.
Là một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì viết mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta, Nam Cao muốn “vứt cả bút đi để cầm súng”, nhà văn cảm thấy “Nếu như chưa cầm súng một phen thì cầm bút cũng vụng về” (Bút ký Ðường Vô Nam - 1946). Với Nam Cao, nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình thức. Tiểu thuyết của Nam Cao gần như không có sự hư cấu. Vì vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Về phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm người cầm bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong nghề văn coi đó là sự “bất lương” đến “đê tiện” Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với ý thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nỗ lực để “hiểu biết, khám phá, sáng tạo”.
Sơ đồ tư duy - Nhà văn Nam Cao