Viết đoạn văn ngắn về tác phẩm lảo hạt

2 câu trả lời

Lão Hạc có một người con trai, 1 mảnh vườn và một con chó. Con trai lão đi đồn điền cao su, lão chỉ còn lại cậu Vàng. Vì muốn giữ lại mảnh vườn cho con, lão đành phải bán con chó, mặc dù hết sức buồn bã và đau xót. Lão mang tất cả tiền dành dụm được gửi ông giáo và nhờ ông trông coi mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày một khó khăn, lão kiếm được gì ăn nấy và từ chối cả sự giúp đỡ của ông giáo. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó, nói là để giết con chó hay đến vườn và cùng Binh Tư uống rượu. Ông giáo rất buồn khi nghe Binh Tư kể chuyện ấy. Nhưng rồi lão bỗng nhiên chết - cái chết thật dữ dội. Cả làng không ai hiểu vì sao lão chết, chỉ có Binh Tư và ông giáo hiểu.

Lão Hạc”. Nhân vật Lão Hạc trong truyện là một nhân vật đã để lại trong người đọc ấn tượng dầu sâu sắc. Lão Hạc có một cuộc đời hết sức bi thảm và đau khổ khi vợ lão thì mất sớm, lão gà trống nuôi con một mình. Anh con trai không lấy được vợ do nhà quá nghèo nên phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su. Lão ngày ngày mong mỏi con về, sống đơn độc và chỉ có con chó Vàng bầu bạn cùng. Chính vì đói nghèo nên cuối cùng, lão phải dứt ruột bán đi người bạn duy nhất, chỗ dựa cuối cùng của lão – cậu Vàng. Lão Hạc đã ăn bả chó tự tử, để giữ trọn nhân phẩm của mình bằng cái chết đầy đau đớn. Cuộc đời của lão Hạc là bức tranh phản ánh rõ nét nhất số phận cùng đường bi thảm của người nông dân lúc bấy giờ. Thế nhưng, trong những gam màu tưởng chừng như tối tăm ấy, ta lại thấy một cái gì đó sáng ngời lên, hay đó chính là vẻ đẹp nhân cách của lão Hạc. Đó là một người cha yêu thương con hết mực. Với lão, dù cho có chết đói lão cũng không bán đi một sào vườn nào vì lão sợ nếu bán, con trai lão mai này có trở về thì sẽ ở đâu mà sống, mà lập nghiệp? Nếu lão bán đi mảnh vườn thì hiển nhiên, lão sẽ vượt qua được giai đoạn khốn khó, đói kém ấy, nhưng vì sự thương con cao cả, lão đã quyết định không bán. Lão Hạc để dành dụm từng đồng, từng cắc để độ con trai về, đưa cho con để con sau này lấy vợ, lập nghiệp. Không may, lão lại ốm, một cơn ốm khiến lão buộc phải tiêu tới số tiền để dành đó.Chỉ vậy thôi mà lão đã thấy đau lòng, đau lòng vì lão đã ăn vào tiền của con. Rồi lão gửi ông giáo mảnh vườn, nhờ ông giáo giữ hộ cho con trai lão : “của mẹ nó thì nó hưởng”. Có thể thấy, mọi suy nghĩ, việc làm đều hướng về con trai, vì con trai, mong muốn nó có một tương lai tốt đẹp hơn. Thậm chí, có lẽ cái chết của lão cũng là vì con, đó là một cái chết trong sạch , không chỉ giữ gìn phẩm chất, lòng tự trọng của bản thân mà còn để lại một con đường không vẩn đục phía trước dành cho con trai lão. Tình yêu thương của người cha dành cho con thật vĩ đại và cao cả biết bao. Nó không được thể hiện một cách trực tiếp và gián tiếp qua từng hành động, lời nói và suy nghĩ của nhân vật. Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc miêu tả nội tâm đặc sắc của nhân vật, kết hợp với cách xây dựng những chi tiết nghệ thuật độc đáo, thành công khắc họa nên một chân dung nhân vật lão Hạc là điển hình cho hình ảnh người nông dân trong xã hội cũ đầy khổ cực, bị dồn đến bước đường cùng nhưng qua đó cũng làm rạng lên những vẻ đẹp tâm hồn và một trong số đó chính là tình yêu thương con vô bờ bến. Qua nhân vật này, Nam Cao cũng phần nào đã khẳng định được ngòi bút đầy tài hoa của mình.
Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Tìm từ láy Ngoài những danh từ quen thuộc như Tết, Tết Nguyên Đán, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền…, trong tiếng Việt còn xuất hiện nhiều từ ngữ khác để chỉ về dịp lễ đầu xuân âm lịch có ý nghĩa quan trọng bậc nhất mỗi năm. Mỗi cụm danh từ này đều chuyên chở nhiều tâm tư nguyện vọng của những người trong cuộc. TẾT XƯA: thường sử dụng trong hoàn cảnh người nói (hoặc người viết) hoài niệm những vốn liếng văn hóa vàng son của truyền thống, những nét đẹp cổ truyền xuất sắc của quá khứ. Tết xưa cũng thường dùng khi chúng ta muốn bày tỏ cảm xúc tri ân, tấm lòng trân trọng, niềm mong muốn gìn giữ bảo tồn và phát triển đối với các phong tục lễ hội của các bậc tiền nhân. TẾT NAY: là khái niệm được dùng trong không khí tươi vui, mang đượm màu sắc, hơi thở của nhịp sống đương đại. Có một thực tế là, tùy thuộc vào từng cá nhân, cứ mỗi chu kỳ sau vài năm, Tết nay lại trở thành… Tết xưa trong ký ức theo dòng chảy thời gian. Thế nên, Tết nay thường cũng kèm theo đó là tâm lý tiếc nuối “Tết nay không như Tết xưa”, với tâm trạng mong ước được trở về những tháng ngày yêu thương đong đầy ấm áp cũ. TẾT QUÊ: dùng để chỉ về hình ảnh đón xuân tại nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người. Tương tự như khái niệm Tết xưa, Tết quê luôn gắn với cảm xúc nhớ thương da diết về những kỷ niệm hồi ức. Tết quê có thể hiểu là Tết ở các vùng làng xóm, thôn bản khi chủ thể đang sinh sống, học tập và làm việc tại các khu vực thành thị. Song đôi lúc, ngay tại các đô thị phát triển sầm uất, mô hình Tết quê vẫn được tái hiện bởi các tổ chức hoạt động văn hóa hoặc các đơn vị doanh nghiệp, nhằm phục vụ nhu cầu vui mừng đón xuân của công chúng thành thị. Ngoài ra, Tết quê còn có thể hiểu là hình ảnh Tết tại quê nhà Việt Nam nếu chủ thể đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài. TẾT PHỐ: là hoàn cảnh đối ngược với Tết quê, dùng khi nói đến cảnh tượng đón xuân tại những nơi thành thị. Thường gắn với các hình ảnh của sự nhộn nhịp, tấp nập, lộng lẫy, diễm lệ, sang trọng, thế nên, khái niệm Tết phố không chỉ dừng lại ở việc biểu thị địa điểm đón Tết mà còn ẩn chứa các tầng nghĩa về thói quen, hành vi, tâm lý đón Tết của một nhóm người gắn bó với bối cảnh thị thành. TẾT XA NHÀ: là từ ngữ nặng trĩu tâm tư của những người con phải chịu cảnh đón chào Tết đến xuân về trong hoàn cảnh không thể trở về quê hương (có thể là cả nông thôn lẫn thành thị) hoặc không thể trở về sum họp cùng gia đình do phải trực ban ở cơ quan, nơi công tác đối với các ngành nghề đặc thù thuộc các lĩnh vực như y tế, an ninh, báo chí, buôn bán… TẾT CHẬM: là một khái niệm liên quan đến một quan niệm/ quan điểm rộng hơn: sống chậm. Theo đó, khuyến khích mỗi người từ tốn cảm nhận cảm xúc của bản thân trong từng phút giây trôi qua. Vẫn đề cao phương châm “thời gian là vàng bạc” nhưng không phải là ra sức chạy đua với thời gian để hòng tìm kiếm công danh tiền bạc, mà là làm bạn thật sự với thời gian, cùng đi tìm hiểu đến tận cùng của niềm thấu hiểu về sự sống. Vậy nên, Tết chậm được hiểu là khoảng thời gian hân thưởng những ưu đãi của thiên nhiên đất trời đương rạo rực vào xuân, thay vì phải tất bật với những trói buộc đang vây bủa lấy lấy sự ngơi nghỉ của cả thể xác lẫn tâm hồn. TẾT TRỰC TUYẾN (TẾT ONLINE): cụm danh từ được sinh ra trong bối cảnh hiện đại của thời kỳ công nghệ. Khái niệm này một mặt vinh danh các ý nghĩa tích cực của sự phát triển hiện đại hóa, song mặt khác cũng có sắc thái ám chỉ mong muốn được trở lại khoảnh khắc quây quần bên nhau và đón mừng năm mới như Tết trực tiếp truyền thống: thắm thiết và giản dị. TẾT BÌNH THƯỜNG MỚI: có lẽ là cụm danh từ đặc biệt nhất trong những từ ngữ định danh khi nhắc đến Tết. Không chỉ phản ánh lịch sử thời đại trước cơn đại dịch toàn cầu hay đơn thuần chỉ là mang ý nghĩa khẩu hiệu hô hào tuyên truyền, khái niệm Tết bình thường mới còn được dùng để thiết lập, tạo dựng một nếp sống mới, khuyến khích người dân mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội đồng sức đồng lòng chung tay trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, tất cả hướng đến mục tiêu Tết an lành, Tết không dịch bệnh.

2 lượt xem
2 đáp án
4 giờ trước