Viết bài văn dài 2 đôi giấy nêu suy nghĩ về nhân vật bé thu trong tác phẩm chiếc lược ngà . Không chép mạng giúp cô mình nha

2 câu trả lời

Đề bài: CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT BÉ THU
 trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.
=> Gợi ý:
- Xác định đúng vấn đề : trình bày được cảm nhận của bản thân về nhân vật bé Thu-một nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ. 
- Giới thiệu được hoàn cảnh của bé Thu ( thực chất là việc giới thiệu đôi nét cốt truyện và tình huống truyện để làm nổi bật tình cảm và tính cách của cô bé ): Chiến tranh đã làm bé Thu phải xa cha từ nhỏ. Nhiều năm xa cách, ngày cha về thăm nhà, bé Thu không thể nhận cha ngay vì gương mặt cha đã bị thương tích làm thay đổi. Khi em hiểu ra và nhận cha lại là lúc cha phải lên đường trở lại chiến trường. Ai ngờ, đó là lần cha em ra đi mãi mãi. Bé Thu trở thành chiến sĩ giao liên đi tiếp con đường cha em đã đi.
Tình thương cha và tính cách đầy ấn tượng của nhân vật bé Thu được khắc họa sinh động trong hoàn cảnh cảm động, éo le đó.
- Ấn tượng về một tấm lòng yêu thương cha mãnh liệt
Trình bày cảm nhận về tình thương yêu cha của bé Thu qua phân tích các chi tiết về hành động,lời nói, thái độ , tâm trạng của nhân vật được thể hiện trong hai hoàn cảnh:
+ Khi người cha từ chiến trường về thăm nhà :tình thương yêu cha của bé Thu được thể hiện một cách hết sức bất thường , đó là dứt khoát chối bỏ người cha hiện tại mà em cho là không phải cha mình để dành trọn vẹn tình thương yêu cho người cha mà em hằng mong nhớ …

Các bạn cần chọn và phân tích các chi tiết: hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy, kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu; chỉ nói trống không, kiên quyết không gọi ba, đặc biệt là không chịu nhờ vả khi gặp khó khăn (khi nấu cơm), dứt khoát không nhận sự chăm sóc ( hất đi cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho trong bữa cơm), bỏ sang nhà ngoại đêm trước ngày ông Sáu lên đường…
+ Khi người cha chuẩn bị lên đường : một tình thương yêu cha mãnh liệt được bộc lộ gây xúc động khác thường.
Trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn. Khi được ngoại giảng giải, nó trằn trọc thở dài suốt đêm như hối hận, dằn vặt vì thấy có lỗi; trở về nhà, lẳng lặng đứng quan sát và chờ đợi cha; phút chót cất tiếng gọi ba “tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người…”, “chạy thót lên, và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó…”, “nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”, “Hai tay nó xiết chặt lấy cổ…nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó…”.
Có thể nói, trong giây phút nhận ra cha, mọi cảm xúc dồn nén trong bé vỡ òa làm xúc động lòng người về một tình phụ tử sâu sắc.
Xuyên suốt đoạn trích , trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau ,nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu-một em bé mới chỉ tám tuổi.Ấn tượng mà nhân vật để lại sâu sắc là vì thế.
- Ấn tượng về một nhân vật đầy cá tính
Đó là một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo…) nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn …
- Thành công nghệ thuật của nhà văn khi xây dựng nhân vật bé Thu
Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ : sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em; cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” ( như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng ba gắp cho, chi tiết chiếc lược ngà mà Thu xin ba trước lúc ba đi…) . Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc tronglòng người đọc về tình người- tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách,thương đau; để lại ấn tượng về một em bé Nam Bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

BÀI LÀM
Có một nhà văn đã nói rằng : "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.

Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuòng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường.

Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:-Ba!Không cho ba đi nữa!Ba ở nhà với con!”.Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc,hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo…) nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” ( như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi…) Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn nam bộ,các tác phẩm của ông chủ yếu viết về con người và cuộc sống ở Nam Bộ, các tác phẩm của ông chủ yếu viết về con người và cuộc sống ở Nam Bộ. Trong đó ” chiếc lược ngà” là một truyện ngắn tiêu biểu được viết năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đang diễn ra ác liệt, điều đáng chú ý là truyện được viết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh nhưng lại tập trung nói về tình người cụ thể là tình cha con. Tình cảm ấy được diễn ra sâu sắc cảm động từ hai phía bé Thu và ông Sáu. Nhưng có lẽ xúc động và gây ám ảnh với người đọc hơn cả là tình cảm của con người – bé Thu dành cho người cha đáng kính của mình.

Cũng giống như bao em bé ở Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, bé thu có một hình ảnh đặc biệt. Thu là cô bé khoảng tám tuổi, con gái đầu lòng và cũng là con gái duy nhất của ông Sáu, khi ba đi vào chiến trường Thu mới một tuổi và tám năm sau ba em trở về nhưng lại có vết thẹo trên mặt khiến Thu không nhận ra ba của mình. Đến khi em nhận ra và tình cảm cha con thức dậy trong em mãnh liệt cũng là lúc ông Sáu phải trở về chiến khu, chính trong hoàn cảnh đó bé Thu đã bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm đáng yêu đáng mến.

Trước hết, bé Thu là một em bé có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi nhưng đồng thời cũng mang nét hồn nhiên ngây thơ của con trẻ. Gặp lại con sau những tháng năm xa cách với  bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con nhưng thật chớ chêu, đạp lại sự vồ vập của người cha bé Thu lại ngờ vực lảng tránh: ” Nghe gọi, con bé giật mình tròn mắt nhìn. nó ngơ ngac lạ lùng” với bé Thu lúc này ông Sáu như người xa lạ, khi ông chầm chậm bước tới giọng lập bập run run ” ba đây con, ba đây con” thì mặt nó bỗng tái đi và kêu thét lên” Má, má” đó là tiếng kêu sợ hãi và tìm người cầu cứu. Đặc biệt, mấy ngày ông Sáu ở nhà Thu tỏ ra rất ương ngạnh bướng bỉnh và ông Sáu càng muốn gần con thì bé Thu càng tỏ ra lạnh nhạt xa cách. Tâm lý và thái độ ấy của bé Thu được thể hiện qua hàng loạt chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động ” nó chỉ nói chống không với ông Sáu mà không chịu gọi ba” kể cả trong lúc bé nhất định không chịu nhờ không chắt nước nồi cơm to đang sôi, rồi khi má giục gọi ba vào ăn cơm nó vẫn cứ nói chống ” cơm chín rồi, vô ăn cơm”. Cách gọi này không phải Thu là cô bé vô lễ mà thể hiện cá tính ương ngạnh ở em. đặc biệt hành động em hất tung cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho ra khỏi chén. Cuối cùng bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái thì nó bỏ về nhà ngoại. Những hành động và thái độ đó khiến cho ông Sáu và người đọc rất đau lòng, bởi còn gì đau đớn hơn thì một người cha khao khát được gặp con được thương con mà lại bị con mình chối bỏ cự tuyệt hoàn toàn.

Tuy nhiên, sự ương ngạnh của bé Thu là hoàn toàn không đáng trách trong hoàn cảnh xa cách va cách trở của chiến tranh, Thu còn quá nhỏ để thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt éo le của đời sống và người lớn cũng chưa ai kịp chuẩn bị cho em những kĩ năng. vì thế Thu không tin ông Sáu là ba em chỉ vì ông có vét thẹo khác với người ba trong bức hình chụp chung với má mà em được biết, phản ứng tâm lý ấy của Thu là hoàn toàn tự nhiên thể hiện nét hồn nhiên, ngây thơ của trẻ con. Đồng thời, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ cứng cỏi, tình cảm trong em sâu sắc chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó là ba mình. Như vậy ” cứng đầu” của Thu ẩn chứa sự kiêu hãnh trẻ thơ và một tình yêu dành cho ” người cha khác” với người cha trong bức hình chụp chung với má nó, Suy nghĩ về nhân vật bé Thu trong chuyện ngắn ” chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

Cái tính ương ngạnh là thế nhưng khi nhận ra ông Sáu chính là ba của mình thì tình yêu thương ba sâu nặng ở bé Thu được nhân lên gấp bội. Trong đêm bỏ về bà ngoại, bé Thu được bà ngoại giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt của ba nó là cho Tây bán thương.  Sự nghi ngờ bấy lâu được giải tỏa và ở Thu nảy sinh một trạng thái là ân hận, hối tiếc ” nghe bà kể nằm lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế, trong buổi cuối cùng trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu thay đổi đột ngột. Nó không bướng bỉnh hay cau màu nhăn nhó nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu khi đối diện với ông Sáu ‘ đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao” đằng sau đôi mắt ấy đang xáo động bao ý nghĩ, bao tình cảm và sau lời từ biệt của ông Sáu,” thôi ba đi nghe con” thì tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra mạnh mẽ hối hả và cuống quýt. Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ” ba” sau tám năm. Tiếng gọi ấy chan chứa bao tình cảm gây được bao xúc động: ” tiếng kêu của nó như xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa” đó là tiếng ba mà: ” nó cố đè nén trong bao năm nay như vỡ tung ra từ đáy lòng nó” cùng với tiếng gọi đó là những cử chỉ khiến người kể chuyện, bà con hàng xóm và cả người đọc chúng ta xúc động đến lao lòng ” nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, nhà văn không viết nhiều, chỉ vàu chi tiết nhỏ ấy cũng đủ để người đọc cảm  nhận tình yêu thương ruột thịt. nồng nàn mà bé Thu dành cho ba của mình, trong giây phút ấy, bé Thu không chỉ thấy yêu ba, thương ba mà rất tự hào về ba nên: ” nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài trên má ba”. có lẽ vì rất tiếc thời gianqua không nhận ba nên nó muốn níu kéo ba ở lại ” không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con”, nhưng rồi ý thức được công việc của ba, công việc của kháng chiến của đất nước nên khi bà ngoại giải thích Thu đã rời khỏi vòng tay ba. Điều này làm ta hiểu thêm một điều: “ tình yêu và niềm tin tự hào về ba đã trở thành sức mạnh thôi thúc rèn rũa để sau này Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm.

Tình yêu thương ba của bé Thu để lại bao ấn tượng trong lòng bạn đọc là nhờ vào cách xây dựng nhân vật rất thành công của Nguyễn Quang Sáng. trước hết, tác giả đặt nhân vật bé Thu vào tình huống chuyện rất éo le để nhân vật bộc lộ rõ nét cá tính và tình cảm của mình, đặc biệt Nguyễn Quang Sáng còn rất thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, mọi hành động thái độ của Thu trong hai thời điểm trước và sau khi nhận ông Sáu là ba đều biểu hiện trái ngược hoàn toàn. Tất cả đều bắt nguồn từ tình cảm sâu sắc dành cho người cha ma em hằng kính yêu, tôn thờ, có thể nói rằng, với một tâm hồn nhạy cảm chan chứa yêu thương, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến tận cùng những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách cảm động tinh tế.

Có thể nói chiến tranh đã lùi xa hơn ba mươi năm nhưng hình ảnh nhân vật bé Thu và câu chuyện ” chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng vẫn để lại bao ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc về một em bé vừa hồn nhiên, cứng cỏi, vừa có tình yêu thương ba sâu sắc, mãnh liệt, qua nhân vật bé Thu, ta càng thấm thía hơn tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp, thấm thía hơn phụ tử thiêng liêng, cao đẹp, thấm thía những mất mát đau thương mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình đồng thời ta hãy trân trọng cuộc sống hòa bình mà mình đang được hưởng hôm nay.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Giúp em với ạ!

Câu 1: Nội dung nào của Hiệp định Giơnevơ ghi nhận tư cách của Việt Nam như là thành viên của Liên hợp quốc?

A. Không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

B. Thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

C. Thực hiện tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực.

D. Thành lập khu phi quân sự hai bên giới tuyến của vĩ tuyến 17.

Câu 2: Điểm chung trong kế hoạch Rơve (1949) và kế hoạch Nava (1953) là?

A. nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

B. bảo vệ chính quyền Bảo Đại do Pháp lập ra.

C. muốn xoay chuyển cục diện chiến tranh.

D. phô trương tiềm lực và sức mạnh của Pháp.

Câu 3: Nguyên nhân khách quan tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) là

A. Nhật đầu hàng đồng minh.

B. Đồng minh vào Đông Dương.

C. Liên Xô tấn công Pháp.

D. Đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương.

Câu 4: Lí do cơ bản dẫn đến tình trạng chia cắt đất nước Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là

A. hai miền có sự khác biệt về kinh tế, xã hội.

B. Pháp, Mĩ không chịu thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.

C. mâu thuẫn về quyền lợi của các cường quốc trên lãnh thổ Việt Nam.

D. Pháp không thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Câu 5: Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước ta lại bị chia cắt là do

A. âm mưu phá hoại Hiệp định của Pháp.

B. Mĩ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.

C. những quy định của Hiệp định Giơ ne vơ.

D. sự can thiệp của quốc tế.

6 lượt xem
1 đáp án
5 giờ trước