Trình bày kinh tế, khoa học - kĩ thuật , đối ngoại của Nhật Bản trong những giai đoạn 1945- 1952, từ 1952-1973 , từ 1973-1991 , từ 1991- 2000

2 câu trả lời

 1945 – 1952

Sau chiến tranh, Nhật Bản bị quân đội Mĩ chiếm đóng từ năm 1945 đến 1952 với danh nghĩa lực lượng Đồng minh nhưng Chính phủ Nhật Bản vẫn tồn tại và hoạt động.

Bộ chỉ huy tống cao lực lượng Đông minh (SCAP) soạn thảo hiến pháp (có hiệu lực từ ngày 1/5/1947) quy định Nhật Bản là nước quân chủ lập hiến nhưng thực chất là chế độ dân chủ đại nghị tư sản. Nhật Bản cam kết từ bỏ việc tiến hành chiến tranh, không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; không duy trì đội quân thường trực, chỉ có lực lượng phòng vệ dân sự bảo đảm an ninh trật tự trong nước.

SCAP thực hiện ba cuộc cải cách kinh tế gồm: thủ tiêu chế độ tập trung kinh tế; cải cách ruộng đất; dân chủ hóa lao động. Đến đầu thập kỷ 50, Nhật Bản đã khôi phục kinh tế, đạt mức trước chiến tranh.

Nhật Bản liên minh chặt chẽ với Mĩ, kí kết Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô (ngày 8/9/1951); năm 1952, chấm dứt chế độ chiếm đóng của Đồng minh, sau đó kí kết Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật, cho Mĩ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật Bản.

 1952 - 1973

Từ năm 1952 – 1960, kinh tế Nhật Bản phát triển nhanh, đặc biệt giai đoạn từ năm 1960 – 1973 được họi là giai đoạn phát triển thần kì.

Từ thập kỷ 70 trở đi, Nhật Bản trở thành một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.

Khoa học – kĩ thuật của Nhật Bản tập trung vào lĩnh vực sản xuất ứng dụng dân dụng và đạt được nhiều thành tựu.

Những yếu tố giúp Nhật Bản vươn lên trở thành siêu cường kinh tế thứ 2 trên thế giới gồm:

+ Coi trọng nhân tố con người.

+ Vai trò quản lí hiệu quả của nhà nước.

+ Các công ti Nhật Bản rất năng động, có sức cạnh tranh cao.

+ Áp dụng thành công các thành tựu khoa học - kĩ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.

+ Chi phí quốc phòng thấp, vốn chủ yếu được đầu tư vào kinh tế.

+ Tận dụng tốt các yếu tố bên ngoài để phát triển.

Từ năm 1955 – 1993, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) liên tục cầm quyền, với chủ trương “Nhà nước phúc lợi chung” đã giúp Nhật Bản tăng thu nhập quốc dân lên gấp đôi trong thời gian 10 năm (từ 1960 - 1970).

Hiệp ước an ninh Mĩ - Nhật (kí năm 1951) có giá trị trong 10 năm và sau đó kéo dài vĩnh viễn. Năm 1965, Nhật Bản bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Liên Xô và sau đó trở thành thành viên của Liên hiệp quốc.

 1973 – 1991

Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năng lượng, từ năm 1973 trở đi, kinh tế nhật Bản thường xen kẽ những giai đoạn suy thoái ngắn. Tuy nhiên từ giữa thập kỷ 80, Nhật Bản đã trở thành chủ nợ lớn nhất thế giới.

Từ giữa thập kỷ 70, Nhật Bản tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.

Ngày 21/9/1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

 1991 – 2000

Từ đầu thập kỷ 90, dù lâm vào tình trạng suy thoái kinh tế nhưng Nhật Bản vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế - tài chính lớn của thế giới.

Tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh khác nhau và hợp tác với Mĩ, Liên Xô (sau là Nga) trong các chưng trình vũ trụ quốc tế.

Sau 38 năm liên tục cầm quyền của LDP (1955 - 1993), từ năm 1993 – 2000, chính quyền ở Nhật Bản do các đảng đối lập hoặc liên minh các đảng phái khác nhau lãnh đạo nên tình hình xã hội Nhật Bản không ổn định như trước.

Ngoài việc duy trì liên minh với Mĩ, Nhật Bản rất coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tác toàn cầu và nỗ lực vươn lên thành cường quốc chính trị.

Hơi dài :))

Câu hỏi trong lớp Xem thêm