Tình hình kinh tế nước ta từ thế kỷ VI có gì thay đổi

2 câu trả lời

a) Về nông nghiệp

- Từ thế kỉ I ở Giao Châu người ta đã biết dùng trâu, bò để cày bừa.

- Đã có đề phòng thủ.

- Trồng lúa 2 vụ trên 1 năm

b) Về công nghiệp

- Nghề rèn sắt, làm gốm, tráng men và trang trí trên gốm phát triển.

- Nghề dệt vải phát triển.

c) Về thương nghiệp

- Chợ làng, chợ lớn xuất hiện ở Luy Lâu, Long Biên.

- Một số thường nhân đã đến buôn bán.

- Chính quyền đô hộ nắm độc quyền ngoại thương.

 

- Đồ sắt được sử dụng rộng rãi (công cụ, dụng cụ, vũ khí)

Nhà Hán thực hiện nắm độc quyền về sắt và đặt các chức quan để kiểm soát gắt gao việc khai thác, chế tạo và mua bán đồ sắt. Tuy nhiên, nghề sắt ở Giao Châu vẫn phát triển bằng chứng là: các nhà khảo cổ tìm được nhiều đồ sắt trong các di chỉ, mộ cổ thuộc thế kỉ I - VI (vũ khí, rìu, mai, cuốc,…)

- Nông nghiệp:

+ Sử dụng sức lao động của trâu, bò phổ biến.

+ Phong Khê: có đê phòng lụt, có nhiều kênh ngòi.

+ Hai vụ lúa: vụ chiêm, vụ mùa.

+ Cây trồng và vật nuôi phong phú.

- Thủ công nghiệp:

+ Chính quyền phương Bắc giữ độc quyền đồ sắt. 

+ Nghề rèn sắt phát triển, nghề làm gốm mở mang.

+ Nghề dệt vải (tơ tre, tơ chuối). Vải tơ chuối là đặc sản của miền đất Âu Lạc cũ, các nhà sử học gọi là vải Giao Chỉ.

- Thương nghiệp: hàng hóa trao đổi buôn bán.

+ Hình thành các làng.

+ Trao đổi với thương nhân Giava, Trung Quốc, Ấn Độ.

+ Chính quyền đô hộ giữ độc quyền về ngoại thương.