sau cuộc cách mạng dân chủ tư sản(1905-1907),vì sao nhân dân nước nga lại muân thuẫn với Nga hoàng
2 câu trả lời
Đến năm 1917, phần lớn người dân Nga đã mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của chế độ Sa hoàng. Nạn tham nhũng tràn lan trong chính phủ, nền kinh tế Nga vẫn lạc hậu. Sa hoàng Nicholas liên tục giải tán Duma - Quốc hội Nga được thành lập sau Cách mạng 1905, khi nó chống lại ý nguyện của ông và gia tộc.
Chính sự bảo thủ của chế độ Sa hoàng đã tạo ra các tổ chức tư bản độc quyền nhưng vẫn mang màu sắc quý tộc, phong kiến thông qua các tước vị cha truyền, con nối. Các nhà đại tư bản kiểm soát phần lớn các ngành công nghiệp nội địa của Nga như: Dầu mỏ, than đá, luyện kim, đường sắt… Giai cấp công nhân Nga vừa bị bóc lột, vừa bị đối xử tàn tệ như những kẻ nô lệ trong hầm mỏ và nhà máy. Trong khi đó, người nông dân Nga do không chịu nổi tô, thuế, phần lớn đã bỏ ruộng đất ra các thành phố lớn kiếm việc làm. Đây là những tàn tích của chế độ phong kiến-nông nô khi phần lớn ruộng đất tại Nga nằm trong tay giới địa chủ, quý tộc và nhà thờ. Cuộc sống cực khổ đã đưa người nông dân Nga tiến tới con đường bần cùng hóa.
Thực tế, do ảnh hưởng của chế độ phong kiến, mức độ phát triển sản xuất tư bản tại Nga chỉ tương đương một quốc gia trung bình tại châu Âu. Công nghệ lạc hậu, dựa nhiều vào sức người, năng suất thấp và phần lớn lợi tức phụ thuộc vào việc xuất khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô sang phương Tây, nhất là Anh, Pháp và Đức. Phương Tây coi Nga vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa, vừa là nơi cung cấp những nguyên liệu thô thiết yếu cho nền công nghiệp của họ.
Để dập tắt các phong trào đấu tranh dân chủ trong nước, Sa hoàng và lực lượng đại tư bản đã thẳng tay bóc lột và tước bỏ mọi quyền tự do của giai cấp công nhân, nông dân. Để duy trì quyền cai trị, Sa hoàng duy trì một đội quân thường trực đông đảo cùng với lực lượng cảnh sát, hiến binh sẵn sàng đàn áp các hành động chống đối trong biển máu.
Chính những mâu thuẫn đan xen giữa giai cấp công nhân, nông dân Nga với tầng lớp tư bản, chủ nô, Sa hoàng và sự đấu tranh vì quyền lợi giữa bản thân giai cấp tư bản Nga với giới tư bản nước ngoài đã biến nước Nga phong kiến như một ly nước đầy và chỉ cần một giọt nước sẽ làm tràn ly.
“Giọt nước tràn ly” đó chính là sự can dự của Sa hoàng vào Thế chiến thứ nhất. Về mặt quân sự, đế quốc phong kiến Nga không sánh được với nước Đức công nghiệp hóa. Cuộc chiến kéo dài và quân đội Nga chịu nhiều thương vong hơn bất kỳ quốc gia nào phải chịu đựng trong các cuộc chiến tranh trước đó. Không chỉ thảm bại trên chiến trường, chiến tranh đã làm nền kinh tế nửa tư bản, nửa phong kiến của Nga bị hủy hoại đến vô vọng bởi các nỗ lực tìm nguồn lực duy trì chiến tranh tốn kém. Ở các thành phố lớn, việc cung cấp bánh mì, đường sữa ngày càng thất thường. Nạn đói đã xảy ra trầm trọng ở nhiều vùng nông thôn. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân tăng lên mạnh mẽ. Đây chính là cơ hội chín muồi cho một cuộc cách mạng lật độ chế độ Sa hoàng.
Sự thối nát của chế độ Sa hoàng và sự bóc lột của các nhà tư bản kết hợp phong kiến tại Nga đã tạo nền móng, thúc đẩy cho cuộc cách mạng đập tan ách áp bức bóc lột đè nặng lên người nông dân và công nhân Nga. Dù là một cuộc cách mạng chưa triệt để với sự ra đời của tổ chức Xô-viết và chính quyền tư sản, nhưng Cách mạng Tháng Hai là dấu ấn quan trọng trong lịch sử Liên bang Xô viết và là bước tập dượt chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Mười sau này