Phân tích sự đối lập giữa 2 chi tiết "tiếng sáo " và tiếng ngựa đạp vào vách "khi Mị bị trói đứng trong đem tình mùa xuân (khoảng 15)
2 câu trả lời
Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, hai chi tiết tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vách chính là hai hình ảnh đối lập nhau tạo nên giá trị nhân văn cao đẹp của truyện. Thật vậy, nếu như cho tiết tiếng sáo là ước mơ và cuộc sống tươi đẹp của Mị thì tiếng chân ngựa đạp vào vách là hiện thực và số phận của Mị. Qua những ngày tháng làm trâu làm ngựa ở nhà thống lí, Mị dường như mất đi niềm hy vọng vào cuộc sống và chấp nhận một cuộc sống vô hồn và bế tắc. Tuy nhiên, trong đêm tình mùa xuân, Mị một lần được sống lại với tiếng sáo của những đêm tình ngày trước. Tiếng sáo chính là nguồn khơi gợi khát khao muốn tìm lại tuổi trẻ, tuổi xuân, tình yêu, tự do, hạnh phúc của Mị. Hơi rượu còn nồng nàn, trong đầu Mị vẫn rập rờn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Chính cái tiếng sáo ấy đã gọi Mị vùng bước đi về với cuộc sống thật của mình đã bị cướp mất trong cái địa ngục trần gian này. Tiếng sáo làm thức dậy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt vốn ngủ im trong Mị bấy lâu nay. Sức mạnh ấy giúp Mị dường như không còn sợ hãi hiện thực, không còn sợ A Sử mà trong tâm trí của Mị chỉ có tiếng sáo và khát khao được tự do, hạnh phúc. Chi tiết tiếng sáo đã thể hiện sâu sắc cái sức sống mãnh liệt đang trào dâng trong lòng cô lúc bấy giờ. Và tiếng sáo đã thành một biểu tượng sâu sắc và gợi cảm cho ước mơ và sức sống của Mị. Đối lập với hình ảnh tiếng sáo là chi tiết tiếng chân ngựa đạp vách. Dù cho Mị có sức mạnh để "vùng bước đi" nhưng tay chân đau không cựa được, tiếng sáo trong tâm trí cũng chẳng còn, ước mơ tan biến, và hiện thực trần trụi, phũ phàng hiện ra: chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị đã tỉnh hẳn khi dây trói thít chặt lại, đau nhức, và cay đắng nhận ra số phận của mình không bằng con ngựa. Cái dây trói kia chỉ làm đau thể xác. nhưng cái tiếng chân ngựa này mới thực sự xoáy sâu vào nỗi đau tinh thần của Mị. Tiếng chân ngựa gợi lên số phận không bằng thân trâu ngựa của Mị. Tiếng chân ngựa đã thành một biểu trưng giàu ý nghĩa cho hiện thực và số phận của Mị. Tóm lại, hai chi tiết là hai chi tiết nghệ thuật đối lập nhưng góp phần thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp của truyện: ca ngợi những giá trị của con người đồng thời lên tiếng cho số phận bi đát của họ.
Lép Tôn- Xtôi đã từng nói rằng: "Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn" chi tiết nghệ thuật là những mắt xích rất nhỏ trong tác phẩm nhưng có tác động lớn đến diễn biến tâm lí, số phận nhân vật thúc đẩy cốt truyện phát triển. Nhà văn Tô Hoài với biệt tài xây dựng chi tiết nghệ thuật âm thanh tiếng sáo đã tạo nên điểm nhấn, dấu ấn khó quên của tác phẩm.
Tô Hoài là nhà văn đầu tiên khai thác đề tài miền núi Tây Bắc, Truyện Vợ chồng A Phủ được viết nhân chuyến đi lên Tây Bắc năm 1952, in trong tập truyện Tây Bắc năm 1953, tác phẩm đạt giải nhất hội văn học Việt Nam 1954-1955. Đã diễn tả thành công diễn biến tâm lí nhân vật Mị. Tác giả đã xây dựng chi tiết âm thanh tiếng sáo láy đi láy lại nhiều lần để miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật Mị.
Mị là một cô gái dân tộc Mèo, xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo với cha mẹ. Nhưng khi trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lý Pá Tra, Mị từ một cô gái trẻ trung xinh đẹp, yêu đời ham sống trở thành một người đàn bà câm lặng, chai sạn, tê liệt tất cả ý thức phản kháng. Mị không còn ý thức được không gian, thời gian, sống kiếp đời "lùi lủi như con rùa nuôi trong xó cửa" nhưng mùa xuân đến với không khí náo nức, men rượu và âm thanh tiếng sáo đã làm hồi sinh khát vọng sống trong Mị đặc biệt âm thanh tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân.
Tiếng sáo là chi tiết xuất hiện nhiều lần,trở đi trở lại với các mức độ và sắc thái khác nhau. Lúc đầu là tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếp đến nó văng vẳng ở đầu làng, “lửng lơ bay ngoài đường”. Và rồi giữa Mị và tiếng sáo không còn khoảng cách. Âm thanh ấy len lỏi vào trong tâm trí của Mị . Không chỉ có tiếng sáo hiện tại cô nghe, mà Mị còn nhớ lại cả tiếng sáo trong quá khứ, về khoảng thời gian tươi đẹp, kiêu hãnh của mình. Tiếng sáo đêm hò hẹn đã đánh thức quá khứ tươi đẹp đã từng bị lãng quên trong Mị, "ngoài đồi núi lấp ló đã có ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi". Người đàn bà vốn câm lặng không nói suốt bao năm tháng giờ ngồi nhẩm thầm lời bài hát của người đang thổi " anh ném pao, em không bắt, em không yêu, quả pao rơi rồi". Tiếng sáo biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi cao. Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu. Nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mị.
Tiếng sáo đánh thức trong Mị quá khứ của tuổi thanh xuân tươi đẹp, đó là những ngày tháng Mị sống cuộc đời tự do, vào mùa xuân uống rượu bên bếp rồi thổi sáo, tài thổi sáo của Mị khiến bao người mê. Trong khoảnh khắc ấy cõi lòng mị băng qua mọi khoảng cách không gian, thời gian để trở về sống trọn vẹn với tuổi trẻ tươi đẹp. Chính kí ức ấy là minh chứng cho thấy khát khao về tình yêu, về hạnh phúc vẫn luôn được ấp ủ, gìn giữ trong sâu thẳm tâm hồn Mị; bao đau khổ đọa đày của kiếp đời nô lệ không thể chôn vùi được trong khát vọng sống ấy. Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân "Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi ", "tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường" soi tỏ thực tại thê thảm của Mị. Lúc này bản thân Mị bị ràng buộc bởi người cầm quyền, thần quyền của nhà thống lý nhưng rồi từ bên ngoài ngoại cảnh tiếng sáo đi thẳng vào cõi lòng "rập rờn trong đầu Mị " như một tiếng gọi tha thiết của sự sống, của hạnh phúc, của tự do thôi thúc Mị hành động để sửa soạn đi chơi. Tiếng sáo là chất xúc tác gợi sức sống tiềm tàng của Mị “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”, “Mị vùng bước đi”.
Tuy nhiên, một cô gái mê tiếng sáo, yêu đời như Mị không thể lùi sâu vào mãi góc chết. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình vẫn "lửng lơ bay ngoài đường ", và trong đầu Mỵ vẫn "rập rờn tiếng sáo" thì làm sao Mị có thể hững hờ, làm sao Mị có thể ăn lá ngón? Thay vào đó, cô "lấy hủ rượu, uống ực ực từng bát" Mị dằn lòng xuống, cái đắng cay bị kìm xuống thì cái nồng nàn của hơi men và cái đắm say của "tiếng sáo gọi bạn yêu" càng thôi thúc Mị đứng dậy xắn thêm mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng" như để tự thắp sáng đời mình. Hành động này lại tạo ra niềm tin để có hành động tiếp theo mạnh mẽ hơn: Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt trên vách, sửa soạn đi chơi, bất chấp sự có mặt của A Sử dù hắn là hiện thân trực tiếp và thường trực của cái ác, là người đã làm tan nát tất cả hạnh phúc, sự sống của đời cô. Mị hoàn toàn không hề đếm xỉa đến hiện thực nữa. Lòng mải mê đi theo tiếng sáo, tay cô làm, chân cô bước như kẻ mộng du. Thậm chí cho đến khi đã bị trói bằng cả một thúng dây đay, bằng cả mái tóc dài của chính Mị, thân xác đau đớn cùng cực, thì tiếng sáo vẫn bám riết tâm hồn Mị. Suốt đêm dài... suốt đêm... Mị chỉ còn nghe tiếng sáo... Khi khát vọng tự do, khát vọng tình yêu đã cháy lên thì hiện thực kia làm sao đủ sức ngăn cản được sự bay bổng của tâm hồn?.Lúc này, tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đặc biệt tố cáo bản chất của giai cấp thống trị thực dân phong kiến miền núi.cự tuyệt quyền sống, quyền làm người của con người.
Chi tiết tiếng sáo đã giúp nhà văn Tô Hoài khám phá ra vẻ đẹp tâm hồn Mị, khẳng định được sức sống bất diệt của con người cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Có thể xem tiếng sáo là chi tiết nghệ thuật đẹp, giàu sức gợi, ám ảnh người đọc. Nhân vật Mị trong hoàn cảnh này làm ta liên tưởng đến quá trình thức tỉnh của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao. Những nhà văn lớn vẫn thường là những nhà nhân đạo chủ nghĩa. Cả Nam Cao và Tô Hoài đều là những nhà văn như thế.