Phân tích hình tượng nhân vật người vợ trước khi trở thành vợ tràng trong tác phẩm vợ nhặt của kim lân
2 câu trả lời
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là : “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ ” bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống.
Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm.
Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả : Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta dang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần : Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng ? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã ! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào !
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không? Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt.
Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì dang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: sắp đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần… Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy.
Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt – người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng.
Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.
Từ trước đến nay, đọc Vợ nhặt, chúng ta vẫn thường bàn nhiều hơn về hai mẹ con anh cu Tràng mà gần như không chú ý lắm đến người vợ nhặt. Thực ra, từ nhân vật này, chúng ta có thể nhận diện được khá nhiều điều về nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vai trò của nhân vật người vợ nhặt trước hết có thể được xác định từ những đóng góp trong việc biểu đạt nội dung truyện ngắn.
Với truyện ngắn này, Kim Lân đã trình bày hai mảng hiện thực, một về xã hội, một về con người. Trong văn bản truyện, không chứng kiến những cảnh chết no, chết đói như trên trang truyện Nam Cao nhưng người đọc vẫn rất thấm thía về cái đói của một thời đại qua vài nét phác hoạ của nhà văn. Truyện được mở đầu bằng bầu không khí u ám, nặng tử khí: “Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, tiếng quạ ngoài bãi chợ “cứ gào lên từng hồi thê thiết”. Giữa cảnh tượng “người chết như ngả rạ”, người sống đi lại dật dờ, “xanh xám như những bóng ma:”, người đàn bà tới đây sẽ trở thành chị vợ anh cu Tràng cũng có hình hài không mấy tươi tắn. Người vợ nhặt không được miêu tả với dáng vóc đậm đà, chắc nịch của những người phụ nữ lao động, càng không thể có vẻ đẹp thuần phác như chị Dậu của Ngô Tất Tố. Ngoại hình thị được phác qua bằng một vài đường nét thiếu nữ tính: “cái ngực lép nhố lên”, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “thị gầy sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, “hai con mắt trũng hoáy”. Những chi tiết đó không thể khiến ta thôi nghĩ đến một cơ thể thiếu sức sống, thậm chí một bóng ma vật vờ. Tại sao một thanh niên lao động lại có hình dạng như vậy?
Nhưng những chi tiết cho thấy sự biến dạng về nhân hình của thị chỉ là sự chuẩn bị để người đọc không ngỡ ngàng trước sự biến dạng về nhân cách. Không ai có thể ngờ người đàn bà đó lại có thể hạ thấp mình vì miếng ăn đến thế. Chi tiết thị “sưng sỉa” khi Tràng thất hứa và “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” đã phá huỷ hoàn toàn sự kiêu hãnh vốn có trong mỗi người con gái. Bất ngờ hơn, khi Tràng nói đùa “có về với tớ thì ra khuân lên xe rồi cùng về”, thị theo về thật. Tại sao người đàn bà ấy có thể dễ dàng theo không Tràng? Thị không nghĩ gì đến danh giá của người con gái chưa chồng? “Trăm năm tính cuộc vuông tròn…”, lẽ nào thị liều lĩnh đến vậy?
Mấu chốt của mọi vấn đề là ở cái đói. Thị không giữ được hình hài con người bởi cái đói. Thị không giữ được cái e lệ, không còn ý tứ bởi cái đói. Thị liều lĩnh “trao thân gửi phận” cho người đàn ông không quen biết cũng bởi cái đói. Sự biến dạng thảm khốc về nhân hình và nhân cách người đàn bà này có nguyên nhân từ miếng ăn, từ bản năng sinh tồn. Thân phận thị vừa là nạn nhân thê thảm nhất, vừa là bản cáo trạng đanh thép nhất của một thời đại xã hội. Chỉ nhìn những nỗi khổ nhục mà thị trải qua, chúng ta có thể thấu hiểu hết bao cơ cực, nông nỗi của người lao động Việt Nam thời điểm đêm trước cuộc Cách mạng. Kim Lân không một lời chỉ trích bọn đế quốc Pháp, Nhật, nhưng sức tố cáo từ hình tượng này lại có sức mạnh hơn mọi lời buộc tội cộng lại. Giá trị hiện thực của văn bản truyện nhờ đó được biểu hiện sinh động, hấp dẫn.
Viết về thân phận rẻ rúng của con người nhưng Kim Lân không mang vào trang viết của mình giọng văn khinh ghét, coi thường. Nhà văn thấu hiểu nỗi khổ nhân vật nên ngay khi có cơ hội, ngòi bút tác giả lập tức cất tiếng ngợi ca. Kim Lân khéo léo để anh cu Tràng nhận ra vẻ đẹp thực ở người vợ tội nghiệp của mình: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài tỉnh”. Với bàn tay người vợ ấy, cuộc sống gia đình Tràng đã khác hẳn. Thị không nói đến những chuyện vui, chuyện sung sướng như bà cụ Tứ nhưng chính thị là người đã góp sức để “nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng”. Và chính thị chứ không phải ai khác là người đầu tiên trong cái gia đình nhỏ bé manh nha về tinh thần cách mạng của dân tộc: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. Không ai ngờ được ở người vợ nhặt lại có tiềm tàng những điều mới mẻ tốt đẹp như thế. Ta bắt gặp niềm tin mãnh liệt của Kim Lân vào con người, vào cuộc đời. Không nâng niu, không tin yêu, Kim Lân không thể kiên nhẫn để phát hiện những vẻ đẹp bị khuất lấp ở người đàn bà và miêu tả chúng bằng một thái độ trân trọng không chút ngạc nhiên. Tinh thần nhân đạo của nhà văn là ở đó. Giá trị nhân đạo của truyện ngắn cũng nằm ở đó.
Vai trò của nhân vật người vợ nhặt không chỉ được biểu hiện trên phương diện nội dung tư tưởng mà còn ở phương diện nghệ thuật của văn bản truyện. Kim Lân đã dụng công xây dựng tình huống nghệ thuật độc đáo. Bất cứ ai đọc truyện ngắn đều cám cảnh trước sự tình éo le trong truyện. Anh cu Tràng vừa xấu xí, nghèo túng lại là dân ngụ cư, không có khả năng lấy vợ thế mà “nhặt” được vợ một cách dễ dàng. Chỉ bốn bát bánh đúc, người đàn bà nghèo khổ chấp nhận theo không người đàn ông không từng quen biết. Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng viết: “Tình huống giống như thứ nước rủa ảnh, nó sẽ làm nổi hình nổi sắc các nhân vật, bộc lộ các số phận, các tính cách, các tâm trạng…”. Thông qua hình tượng vợ nhặt, thân phận rẻ rúng của con người sẽ được biểu hiện một cách sinh động, cụ thể. Nói như vậy cũng có nghĩa là, phần nào đó từ nhân vật người vợ nhặt, tình huống truyện sẽ được khai triển. Đó là lẽ tất nhiên bởi không có nhân vật này, diễn biến tình huống sẽ bị ách tắc, quan trọng hơn là tính chất éo le của nó không được biểu hiện. Như vậy, trước tiên, vai trò của nhân vật được biểu hiện trong tình huống nghệ thuật của thiên truyện.
Nhân vật vợ nhặt bước vào tác phẩm còn trở thành nhân tố tạo nên mối liên kết giữa các sự kiện trong đó. Sự xuất hiện của thị đưa câu chuyện đạt được sự thống nhất, hoàn chỉnh, chặt chẽ. Thiếu vắng hình tượng này, câu chuyện của Kim Lân sẽ kém đậm đà và chắc chắn những thông điệp của tác giả sẽ không thể tới người đọc.
Cùng với chị Dậu (Tắt đèn), Mị (Vợ chồng A Phủ) và sau này còn là những chị Đào (Mùa lạc), người vợ nhặt đã góp phần xây dựng nên bức tượng đài về người phụ nữ lao động Việt Nam. Từ hình tượng nhân vật này, chúng ta còn được chứng kiến một tấm lòng nhân đạo cao cả, một tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu nặng với cuộc đời, với con người.