Liên hệ thực tiễn cách mạng việt nam thời kỳ 1965-1975 để chứng tỏ rằng cơ sở khoa học về đường lối kháng chiến chống mỹ cứu nước là đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của dân tộc
2 câu trả lời
đáp án : lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang.
giải thích là : Điểm chung của cách mạng tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) và kháng chiến chống Mĩ (1954-1975) là có sự kết hợp giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang để tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc.
@hoàng 66
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, Với âm mưu thâm độc hòng “kéo dài biên giới Hoa Kỳ đến vĩ tuyến 17” và tiến tới vượt sông Bến Hải tiến quân ra miền Bắc, ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa cộng sản đang lan tràn xuống khu vực Đông Nam Á. Việc Mỹ chủ trương khẩn trương gạt Pháp là chủ trương đầy toan tính, xảo quyệt.
Để thực hiện âm mưu xâm lược, Mỹ đã thực hiện “kế hoặch CôLin”. Theo đó Mỹ sẽ bảo trợ cho chính quyền Diệm, xây dựng lại quân đội quốc gia của Diệm do Mỹ trực tiếp trang bị huấn luyện và chỉ huy. Đồng thời, tổ chức bầu cử “Quốc hội ” để miền Nam Việt Nam thực hiện “độc lập” hợp pháp hoá chính quyền Diệm.
Đây là kế hoạch đầu tiên của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam được thực hiện thông qua chính quyền tay sai, một hình thức thực dân giấu mặt, trá hình nguy hiểm của đế quốc Mỹ. Vì vậy Việt Nam trở thành nơi đụng đầu lịch sử giữa phong trào độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa đế quốc.
Đối với miền Bắc, chúng tến hành chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào di cư vào Nam. Đây là âm mưu khá thâm độc, nham hiểm của địch để tạo ra ảnh hưởng xấu về chế độ chính trị xã hội ở miền Bắc, ngăn chặn sự ảnh hưởng của cách mạng Việt Nam đối với vùng Đông Nam Á. Đồng thời chúng mưu toan phá hoại lực lượng sản xuất, làm cho đời sống xã hội của miền Bắc không ổn định.
Đối với miền Nam, đế quốc Mỹ thấy rằng mối đe doạ trực tiếp lớn nhất đối với sự tồn tại của chúng ở đây là lực lượng cách mạng và lòng dân đi theo cách mạng ở khắp các thôn, xã từ vùng tự do Liên khu V đến các căn cứ kháng chiến U Minh, Dương Minh Châu, chiến khu Đ…
Chính vì vậy, một mặt chúng thanh lọc nội bộ, mặt khác chúng tiến hành chiến dịch tố cộng, diệt cộng. Chúng chĩa mũi nhọn vào những nguời kháng chiến cũ và những người yêu nước, những gia đình có con đi tập kết, những người tán thành hoà bình, thống nhất. Đặc biệt là đội ngũ đảng viên cộng sản, ngoài ra chúng còn tiến hành hàng trăm nghìn cuộc tuy quét vây bắt, tàn sát đẫm máu những người yêu nước, những người kháng chiến cũ.
Đỉnh cao của chính sách khủng bố với những người yêu nước của bè lũ Mỹ - Diệm là ban hành đạo luật 10/59. Với đạo luật này chúng thẳng tay giết hại bất cứ ngưòi yêu nước nào hoặc bất cứ ai đối lập với chúng. Chúng lê máy chém khắp miền Nam, không những tiêu diệt những người cộng sản mà còn gây không khí lo sợ, nghi kỵ, chia rẽ trong dân chúng, làm tê liệt ý chí đấu tranh chống lại chế độ của Ngô Đình Diệm .
Chính sách phát xít của Mỹ - Diệm đã đặt cách mạng miền Nam vào tình thế hiểm nghèo. Không những mục tiêu hoà bình thống nhất chưa thể thực hiện được, mà ngay bản thân các lực lượng cách mạng có nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn.
Trước âm mưu và thủ đoạn của đế quốc Mỹ, tại Hội nghị lần thứ VI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Báo cáo chính trị. Báo cáo đã chỉ ra những khó khăn trước mắt của nhân dân ta, chủ yếu là khó khăn do âm mưu xâm lược của đế quốc Mỹ gây ra. Báo cáo khẳng định kẻ thù chính của nhân dân ta là đế quốc Mỹ, “hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống Mỹ”[1], Người chỉ rõ "tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là một cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp”[2] .
Người nêu lên một số nhiệm vụ và công tác trước mắt mà trong đó công tác then chốt là làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, nhận rõ tính chất và nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Cũng trong Hội nghị lần thứ VI, đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh đã tiếp tục cụ thể hoá quan điểm và phương hướng cơ bản trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời nhấn mạnh, nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh cho hoà bình, vì vậy phải tăng cường lực lượng, củng cố quốc phòng đặc biệt chú ý vấn đề chỉ đạo giải phóng miền Nam. Phải làm cho cán bộ, chiến sĩ, đồng bào hiểu rõ yêu cầu, nhiệm vụ những khó khăn sẽ phải nhiều hơn và không được chủ quan khinh địch.
Báo cáo cũng đặt ra phương châm công tác ở vùng tạm địch chiếm, triệt để lợi dụng thế hợp pháp và nửa hợp pháp để vận động quần chúng đấu tranh. Tổ chức Đảng phải bí mật, chuyển cán bộ vào hoạt động bí mật, khéo che dấu lực lượng, kiên quyết đấu tranh chống chính sách kêu gọi đầu thú của địch để bảo toàn lực lượng.
Hội nghị còn chỉ thị cho Đảng bộ Nam Bộ, Liên khu uỷ V là phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi địch phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, củng cố hoà bình, đấu tranh vì dân sinh, giữ vững những quyền lợi đã giành được trong đấu tranh chống địch khủng bố.
Bộ chính trị còn chỉ thị rõ, Mỹ và tay sai có thể sẽ phá hoại Tổng tuyển cử, việc chia rẽ có thể trường Kỳ cho nên các cấp cần quán triệt và thực hiện tốt ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam.
Một là, tập trung đấu tranh đòi Mỹ thi hành Hiệp định Giơnevơ
Hai là, chuyển hướng công tác cho phù hợp với tình hình mới, tập hợp rộng rãi các lực lượng nhằm đánh đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, thành lập Mặt trận dân tộc thay mặt trận Liên Việt, vận động quân đội, đưa ngưòi của ta bí mật vào hoạt động trong bộ máy của địch.
Tháng 10.1954 tại U Minh Hạ hội nghị thành lập Xứ uỷ Nam Bộ được triệu tập. Hội nghị đã tiếp thu, thực hiện nghị quyết của Trung ương Đảng và đề ra nhiệm vụ cho toàn miền Nam là tăng cường công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, khắc phục tư tưỏng cầu an, dao động… tổ chức thêm các chi bộ mới ở đô thị .
Ngày 18.8.1956 Bộ chính trị gửi thư cho Xứ uỷ Nam Bộ nói rõ thêm công tác cụ thể ở miền Nam trong tình hình hiện nay, cần tổ chức ra những đội tự vệ nhằm bảo vệ xã, thôn, trường học, bệnh viện, bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng, giải thoát cán bộ khi cần thiết.
Đây là những chủ trương đúng đắn, kịp thời có tác dụng quan trọng trong việc duy trì và phát triển lực lượng vũ trang tự vệ ở miền Nam.
Căn cứ vào sự phát triển của tình hình miền Nam, tháng 8.1956 đồng chí Lê Duẩn uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ đã viết “Đề cương cách mạng miền Nam”. Đề cương đã xác định nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là đứng lên làm cách mạng để cứu nước, cứu mình.
Theo tinh thần nghị quyết của Bộ chính trị và nghị quyết Xứ uỷ Nam Bộ. Đảng ta một lần nữa khẳng định để giành thắng lợi cho cách mạng miền Nam phải bằng con đường cách mạng bạo lực.
Xuất phát từ chủ trương đó, các đơn vị vũ trang tuyên tuyền, vũ trang bí mật đã nối tiếp nhau ra đời. Liên tỉnh miền Trung Nam Bộ xây dựng được 3 đại đội vũ trang hoạt động ở Đồng Tháp Mười, Liên tỉnh miền Tây xây dựng được 3 đại đội vũ trang. Đến cuối 1957, ở Nam Bộ đã có tới 37 đơn vị vũ trang cách mạng.
Sau khi các đơn vị vũ trang được thành lập đã lập nên những chiến công xuất sắc. Nổi bật nhất là trận đánh tiến công vào quận lị Dầu Tiếng, cách Sài Gòn 70 km về phía bắc, đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn, diệt 200 tên và thu 200 súng.
Chiều ngày 25.10.1958, bộ đội biệt động Đông Nam Bộ đã tập kích vào trụ sở phái đoàn cố vấn Mỹ (MAAG) ở Biên Hoà diệt nhiều tên.