2 câu trả lời
Mạc Đĩnh Chi (1272 - 1346) quê ở huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, thi đỗ Trạng nguyên năm 1304. Mạc Đĩnh Chi làm quan trải qua ba triều nhà Trần. Ông thông minh, giỏi thơ văn và có tài đối đáp rất sắc bén. Hai lần đi sứ Trung Quốc, ông đã tỏ rõ là người học rộng, tài cao, làm rạng danh đất nước. Khâm phục tái năng, cốt cách của Mạc Đĩnh Chi, vua Nguyên đã phong tặng ông danh hiệu "Lưỡng quốc Trạng Nguyên".
Mạc Đĩnh Chi làm quan rất thanh liêm nên gia đình thường nghèo túng. Sau khi lo cho đám tang của mẹ, cuộc sống của ông vốn thanh bạch giờ càng đạm bạc hơn. Vua Trần Minh Tông biết chuyện, liền hỏi một viên quan tin cẩn :
- Ta muốn trích ít tiền trong kho cho ngươi đem đến biếu Mạc Đĩnh Chi. Làm thế có được không?
Viên quan tâu với vua :
- Thần biết rõ Mạc Đĩnh Chi. Nếu cho người đem tiền đến, ông ấy sẽ không nhận đâu.
- Vậy khanh có cách nào khác không?
- Muôn tâu Bệ hạ ! thần nghĩ chỉ có cách lén bỏ tiền vào nhà, ông ấy không biết phải trả cho ai thì mới nhận.
Nhà vua ưng thuận, sai người đang đêm bỏ một gói tiền vào nhà Mạc Đĩnh Chi.
Sáng hôm sau thức dậy, Mạc Đĩnh Chi thấy gói tiền trong nhà, liền đem vào triều, trình lên vua Minh Tông :
- Tâu hoàng thượng. Đêm qua ai đã bỏ vào nhà thần gói tiền này. Thần ngờ rằng đó là tiền của một người muốn đút lót thần để nhờ vả việc gì đó. Vậy thần đem tới, xin Hoàng thượng cho nộp tiền này vào công quỹ.
Vua Minh Tông đáp :
- Khanh có khó nhọc giúp người ta mới cho. Cứ coi đó là tiền của mình cũng được chứ sao?
- Phàm của cải không do tay mình làm ra thì không được tơ hào đến. Mạc Đĩnh Chi khảng khái tâu.
Vua Trần Minh Tông rất cảm kích trước tấm lòng trung thực, liêm khiết, trọng nhân cách hơn tiền bạc của Mạc Đĩnh Chi. Vua đành giữ lại tiền rồi cho Mạc Đĩnh Chi lui.
Một lần đi công tác qua địa bàn huyện T thuộc tỉnh N, mặc dù Bác đã dặn đồng chí phục vụ chuẩn bị chu đáo cơm nắm mang theo như thường lệ, song lãnh đạo huyện cứ tha thiết mời Bác dùng một bữa cơm do huyện tiếp đãi. Từ chối mãi cũng ngại vì Bác sợ mọi người hiểu lầm Bác xa rời dân nên người đã nhận lời sau khi dặn mọi người hết sức tiết kiệm, không được bày vẽ và người vẫn không quên mang cả món cơm nắm muối vừng vào để mọi người cùng ăn. Chuyện đã qua một thời gian, một hôm, đồng chí văn thư của Bác nhận được một công văn xin… tiền của huyện nọ với lý do trang trải kinh phí bữa ăn của buổi tiếp Bác hôm Bác đi công tác với số tiền gấp vài ba lần so với thực tế (chắc họ nghĩ để tiếp Bác, Trung ương sẽ không từ chối bất cứ điều gì). Không thể giấu Bác, đồng chí văn thư đã lo mọi việc trước khi trình Bác công văn. Đọc xong, Bác lặng lẽ đứng dậy lấy trong tủ gỗ ra một gói nhỏ bọc cẩn thận bằng giấy báo và ni lông, đưa cho đồng chí văn thư và nói: “Đây là số tiền Bác dành dụm tiết kiệm được. Chú hãy mang đến huyện và đưa tận tay cho họ, nói Bác trả tiền cho bữa ăn đãi Bác và cảm ơn họ đã mời. Nếu số tiền này đủ thì thôi, nếu chưa đủ, các chú cho Bác vay tạm và trừ dần vào tiền lương của Bác, đến khi nào đủ thì thôi.” Bác cho chuyện tiếp Bác không liên quan gì đến việc công và kiên quyết không được lấy tiền của công để thanh toán.
Sau lần đó, cho dù đi công tác ở đâu, lãnh đạo địa phương mời đến thế nào, Bác đều khéo léo và kiên quyết từ chối. Bác biết, mọi người mời Bác chân tình và mong muốn được ăn cùng Bác, nhưng . Bác dặn đồng chí phục vụ mỗi lần đi công tác đều phải nắm cơm ở nhà mang đi. Trên đường tính toán đến giờ ăn dừng lại chỗ nào đó giữa đường, Bác cháu ăn với nhau. Đến nơi nói với địa phương Bác ăn cơm rồi, Bác thích thế, đỡ phiền bữa cơm, mất thì giờ của mọi người. Bác nói: “Người ta dọn ra một bữa sang. Bác cháu mình có khi chẳng ăn và chẳng ăn hết. Nhưng đi rồi để lại cái tiếng đấy. Bác Hồ đến thăm cũng làm cơm thế này, thế nọ, cũng điều động người làm mất thời gian. Thế là tự mình, Bác lại bao che cho cái chuyện xôi thịt…Như thế nắm cơm theo ăn cho tiện, ăn no rồi đến làm việc.” Tại nơi ở của mình, những hôm mời khách ăn cơm, bao giờ Bác cũng báo trước cho đồng chí cấp dưỡng biết để chuẩn bị và số tiền đãi khách đó được trừ vào tiền lương của Bác, không bao giờ Người dùng vào tiền công quỹ.
Kháng chiến thành công, Người từ chối đề nghị của Trung ương dành Phủ toàn quyền Đông Dương trước đây làm Phủ Chủ tịch - nơi ở cho mình, mà chỉ đồng ý ở trong một ngôi nhà sàn khiêm tốn. Dự đại tiệc ở thủ đô nước Pháp nhưng Người vẫn nhớ dành quả táo cho em bé ăn xin nơi góc đường. Người kêu gọi cả nước nhường cơm sẻ áo cho thương binh, gia đình liệt sỹ, Người xung phong gửi 1 áo lụa, 1 tháng lương, 1 bữa ăn của bản thân mình. Trong thư gửi Báo Vệ Quốc quân tháng 3-1947, Người nêu 12 điều, trong đó có: "Tuyệt đối không đem của công dùng vào việc tư, không động đến cái kim sợi chỉ của dân; khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ; mua bán phải công bình, mượn cái gì phải trả tử tế, hỏng cái gì phải bồi thường". - Đó chính là thực hành liêm khiết.
Liên hệ thực tế hiện nay, ta thấy thực hành liêm khiết theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc cần hơn bao giờ hết. Người đã chỉ ra rằng: "Để thực hiện chữ LIÊM, cần có tuyên truyền và kiểm soát, giáo dục và pháp luật, từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên". Nghĩa là, cán bộ phải gương mẫu thực hành liêm khiết trong cuộc sống, trong thi hành công vụ. "Quan tham vì dân dại", nếu dân hiểu biết, không chịu đút lót, thì quan dù không LIÊM cũng phải hóa ra LIÊM. Nhân dân phải biết kiểm soát cán bộ, giúp cán bộ thực hiện LIÊM. Pháp luật phải nghiêm khắc, thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, không phân biệt kẻ đó có chức tước, địa vị to hay nhỏ.
Trên Báo Cứu Quốc ngày 1-6-1949, Người đã chỉ ra rằng, liêm là trong sạch, không tham lam. Người cũng phân tích rõ, người tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng, tham ăn ngon, sống yên đều là bất liêm. LIÊM phải đi đôi với kiệm. Vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Do bất liêm mà đi đến trộm cắp, dù công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp.