Hãy phân biệt các hình thức của phép biện chứng trong lịch sử.

2 câu trả lời

Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại, phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ dại. Tiêu biểu cho nhũng tư tưởngng biện chứng của triết học Trung Quốc là "biến dịch luận” (học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ) và "ngũ hành luận" (học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ) của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù "vô ngã", "vô thường", "nhân duyên". Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết: "Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng... Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi sự vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong"'. Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ, chất phác. Ph.Ăngghen nhận xét: "Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu... Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thế ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết: đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, còn thiếu sự chứng minh bởi những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.

Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bất đầu phát triển mạnh, đi sâu vào phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dần tới sự ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong môi liên hệ, thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư đuy biện chứng.

Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức được khởi đầu từ Cantơ và hoàn thiện ở Hêghen. Theo Ph.Ăngghen:"Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen".

Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày nhũng tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hêghen biểu hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của "ý niệm tuyệt đối", coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hêghen, "ý niệm tuyệt đối" là điểm khởi đầu của tồn tại, tự "tha hóa" thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần, "... tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm". Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hêghen, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, quy luật chung, có lôgích chặt chẽ của ý thức, tinh thần. V.I.Lênin cho rằng: "Hêghen đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật (của những hiện tượng, của thế giới, của giới tự nhiên) trong biện chứng của khái niệm". Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của C.Mác: "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cẩn dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nỏ ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó.

Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hêghen là hạn chế cần phải vượt qua. C.Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ph.Ăngghen tự nhận xét: "Có thể nói ràng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử".

- Vật chất là một phạm trù triết học cơ bản, là nền tảng của chủ nghĩa duy vật. Xung quanh phạm trù vật chất luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

- Khuynh hướng chung của các nhà duy vật cổ đại là đi tìm một vật ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra các sự vật hiện tượng khác muôn hình muôn vẻ của thế giới, tất cả mọi cái đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng tan biến trong đó.

Ví dụ: Ta – lét quan niệm vật ban đầu là nước, mọi cái đều sinh ra từ nước và tan biến trong đó. Anaximen cho rằng vật ban đầu là không khí.

- Nhà duy vật thời cổ đại hiểu vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một thể cố định.

- Đến thời kỳ cận đại thì khoa học tự nhiên đã có một phát hiện mới, phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử cho nên quan niệm của thuyết nguyên tử cấu tạo của vật chất càng khẳng định. Lịch sử triết học xác nhận công lao to lớn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển quan niệm về vật chất, tính thống nhất vật chất của thế giới, của các nhà duy vật thế kỷ XVIII: Ph. Bêcơn, Spinôđa, Điđrô.

- Mặc dù vậy, quan điểm của các nhà duy vật thế kỷ XVIII về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử và khối lượng.

- C. Mác và Ăngghen đã kế thừa những giá trị tích cực đồng thời vạch ra những hạn chế của các nhà khoa học trước đó, đã tổng kết những thành tựu của khoa học nhân loại để hình thành quan niệm về vật chất. Cái ông đã nêu lên đối lập giữa vật chất và ý thức về tính thống nhất vật chất của thế giới đặc biệt là về tính khách quan của phạm trù vật chất và sự tồn tại khác nhau của vật chất dưới dạng cụ thể.

- Ăngghen đã nhấn mạnh rằng cần phải phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất, khái niệm vật chất.

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, các nhà phát minh vật lý học đã bác bỏ quan niệm đồng nhất vật chất với các dạng cụ thể của vật chất hoặc các thuộc tính cơ bản của vật chất, của các nhà duy vật cổ đại và cận đại.

- Các phát minh mới phát hiện như tia X, điện tử là một trong những thành phần cấu tạo nên nguyên tử.

+ Từ góc độ triết học, chủ nghĩa duy tâm đã giải thích sai lệch với các phát minh trên cho rằng vật chất đã tiêu tan mất.

+ Do vậy, chủ nghĩa duy vật đã mất cơ sở tồn tại. Điều này đã đòi hỏi phải khắc phục khoa học về phương pháp luận, tạo đà cho sự phát triển tiếp theo của nhận thức duy vật biện chứng về vật chất và về những tính chất cơ bản của vật chất.

- Định nghĩa vật chất của Lênin đã đưa lại thế giới quan duy vật biện chứng về thế giới quan:

+ Định nghĩa khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức.

+ Định nghĩa khẳng định ý thức của con người và có khả năng nhận thức thế giới vật chất, chống lại “thuyết không thể biết”, “hoài nghi luận”.

+ Định nghĩa vật chất của Lênin đã đem lại phương pháp luận biện chứng duy vật của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm