Dàn ý chi tiết Thuyết minh tác phẩm tức nước vỡ bờ của tác Ngô Tất Tố

2 câu trả lời

Tham khảo ạ!

I. Mở bài

  • Giới thiệu một vài nét chủ yếu nhất về tác giả Ngô Tất Tố: một nhà văn hiện thực xuất sắc chuyên viết về nông thôn, nông dân
  • Giới thiệu về tác phẩm Tức nước vỡ bờ: Một tác phẩm tiêu biểu vạch trần bộ mặt tàn ác, vô nhân đạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh khó khăn

II. Thân bài

1. Tình thế gia đình chị Dậu

- Nguy ngập, khốn cùng:

  • Thiếu sưu, nhà không còn của cải đáng giá.
  • Đã bán 1 đứa con gái, 1 ổ chó, 2 gánh khoai để nộp suất sưu cho em chồng. Nhà không còn gì, con đói
  • Anh Dậu bị bệnh, bị đánh trói đến ngất ⇒ khi chúng trả về, anh mới tỉnh
  • Bọn tay sai đến đốc thúc nộp sưu

⇒ sự thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của nhà văn với tình cảnh cơ cực, bế tắc của người nông dân

2. Nhân vật cai lệ

  • Thái độ: hống hách.
  • Ngôn ngữ: hách dịch, kém văn hoá
  • Hành động: đi thúc sưu nhưng luôn đem theo “roi song, tay thước, dây thừng”, đánh trói người vô tội vạ. Đánh cả phụ nữ.

⇒ Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động: Tên cai lệ nổi bật là tên côn đồ, vũ phu

⇒ qua việc miêu tả lối hành xử của cai lệ, nhà văn tố cáo bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời

3. Nhân vật chị Dậu

  • Là người vợ luôn yêu thương chăm sóc chồng chu đáo: chăm sóc anh Dậu khi anh Dậu bị đánh ngất
  • Vì sự an toàn của chồng, chị đã nhẫn nhục van xin tên cai lệ và người nhà lý trưởng
  • Khi chúng đánh chị và sấn tới để trói anh Dậu, chị đã vùng lên đấu tranh, đánh ngã bọn này.
  • Chị Dậu là một phụ nữ lao động giàu lòng yêu thương, nhường nhịn mà cũng tiềm tàng tinh thần phản kháng mạnh mẽ.

⇒ Qua đây, ta thấy sự phát hiện của tác giả về tâm hồn yêu thương, tinh thần phản kháng mãnh liệt của người nông dân vốn hiền lành, chất phác

III. Kết bài

  • Khái quát những nét nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm: Nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch, xây dựng nhân vật thông qua miêu tả chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí...
  • Đây là một đoạn trích mang giá trị hiện thực sâu sắc

Mở bài về đoạn trích tức nước vỡ bờ   Ngô Tất Tố là nhà văn tài năng trong xã hội cũ thời bấy giờ. Một xã hội mua quan bán chức và xe thường những người dân nghèo. Do đó, từng câu từng chữ trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố đã lột tả hết sự gian manh của bọn quan lại trong thời thế nhiễu nhương của xã hội. Nổi bật trong đó là đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” với câu chuyện về chị Dậu đã để lại ấn tượng mạnh xen lẫn sự phẫn uất trong lòng độc giả.

Thân bài thuyết minh về tác phẩm tức nước vỡ bờBi kịch của nhà chị Dậu

   Mở đầu đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” chính là hình ảnh anh Dậu- chồng chị Dậu được người của bọn chức sắc đem “cái xác” của anh tù ngoài đình về nhà, do thiếu sưu thuế lâu ngày mà vẫn chưa trả đủ. Rồi chị Dậu cùng hàng xóm cứu anh Dậu tỉnh lại.

   Nhà đã không còn gì để ăn nữa, nên chị Dậu đành phải đi vay mượn gạo về nấu cháo. Chị muốn anh Dậu khỏe hơn một tí, có thể ăn được cháo rồi mới tính đến chuyện trốn tránh. 

   Khung cảnh mở đầu đoạn trích đã lột tả cảnh nghèo túng của người dân lúc bấy giờ. Vợ chồng chị Dậu khổ sở đến mức không có gì để ăn, chứ đừng nói đến việc đóng thuế, vì vậy bọn quan lại mới vịn vào cớ đó mà hành hạ, đánh đập anh Dậu thừa sống thiếu chết, bởi bọn họ vốn xem trọng tiền của hơn tính mạng con người.

   Sau đó, bọn cường hào ác bá vẫn không buông tha cho nhà chị Dậu, mấy tên cai lệ “ sầm sập tiến vào với những roi mây, tay thước và dây thừng”. Chúng không những hùng hổ, ra vẻ thị uy, chuẩn bị vật anh Dậu dậy, định bắt trói và tra tấn anh thêm lần nữa, chúng nhất định bắt anh “ói” tiền sưu thuế ra, nếu không thì anh Dậu chỉ còn là cái xác.

Tác giả đã miêu tả chân thật và tinh tế khung cảnh ác độc và tàn nhẫn của bọn cường hào đối với những người dân thường khốn khổ. Đầu tiên, bọn chúng muốn hù dọa vợ chồng anh Dậu nên “gõ đầu roi xuống đất”, kèm theo đó là tiếng thét “Thằng kia, ông tưởng mày chết đêm qua, còn sóng đấy à? Nộp tiền sưu ! Mau.”. 

   Cứ như thế bọn cai lệ ung dung “trợn ngược hai mắt”, “quát”, rồi “giọng vẫn hầm hè” đe dọa. Dã man hơn, hắn còn sai người lý trưởng lao đến trói anh Dậu, nhưng anh ta sợ hành hạ người đang bị ốm nên không dám ra tay thì “ Đùng đùng, cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu”. Thấy vậy, chị Dậu sợ chồng không chịu nổi trận đòn thứ hai nên vội van xin tên cai lệ. Ấy vậy mà hắn đánh luôn cả chị, rồi cứ thế tiến đến mà hành hung anh Dậu. 

   Từ những dòng văn Ngô Tất Tố miêu tả sự hung hăng của tên cai lệ, ta mới thấy được rằng sở dĩ hắn có quyền hành và ung dung đánh đập, chà đạp người khác như vậy là nhờ có sự chống lưng của bọn quan quyền phía sau. Vì thế hẳn thẳng tay tra tấn, quát tháo, thậm chí là đánh chết những người dân vô tội mà không cảm thấy thương xót cho họ dù chỉ một chút.

   Thực chất, những tên cai lệ, hay người nhà lí trưởng đều là những kẻ tay sai ở nông thôn. Hán ta không có ý thức hay chức quyền gì, và cũng là một trong số những dân nghèo. Nhưng vì ham mê quyền lực mà theo làm tay sai cho bọn thống trị. Kể từ đó, hắn cũng trở nên hách dịch, tàn ác, nghĩ mình có chức có quyền mà quên đi những con người vốn cùng chung hoàn cảnh với mình. 

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Tìm từ láy Ngoài những danh từ quen thuộc như Tết, Tết Nguyên Đán, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền…, trong tiếng Việt còn xuất hiện nhiều từ ngữ khác để chỉ về dịp lễ đầu xuân âm lịch có ý nghĩa quan trọng bậc nhất mỗi năm. Mỗi cụm danh từ này đều chuyên chở nhiều tâm tư nguyện vọng của những người trong cuộc. TẾT XƯA: thường sử dụng trong hoàn cảnh người nói (hoặc người viết) hoài niệm những vốn liếng văn hóa vàng son của truyền thống, những nét đẹp cổ truyền xuất sắc của quá khứ. Tết xưa cũng thường dùng khi chúng ta muốn bày tỏ cảm xúc tri ân, tấm lòng trân trọng, niềm mong muốn gìn giữ bảo tồn và phát triển đối với các phong tục lễ hội của các bậc tiền nhân. TẾT NAY: là khái niệm được dùng trong không khí tươi vui, mang đượm màu sắc, hơi thở của nhịp sống đương đại. Có một thực tế là, tùy thuộc vào từng cá nhân, cứ mỗi chu kỳ sau vài năm, Tết nay lại trở thành… Tết xưa trong ký ức theo dòng chảy thời gian. Thế nên, Tết nay thường cũng kèm theo đó là tâm lý tiếc nuối “Tết nay không như Tết xưa”, với tâm trạng mong ước được trở về những tháng ngày yêu thương đong đầy ấm áp cũ. TẾT QUÊ: dùng để chỉ về hình ảnh đón xuân tại nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người. Tương tự như khái niệm Tết xưa, Tết quê luôn gắn với cảm xúc nhớ thương da diết về những kỷ niệm hồi ức. Tết quê có thể hiểu là Tết ở các vùng làng xóm, thôn bản khi chủ thể đang sinh sống, học tập và làm việc tại các khu vực thành thị. Song đôi lúc, ngay tại các đô thị phát triển sầm uất, mô hình Tết quê vẫn được tái hiện bởi các tổ chức hoạt động văn hóa hoặc các đơn vị doanh nghiệp, nhằm phục vụ nhu cầu vui mừng đón xuân của công chúng thành thị. Ngoài ra, Tết quê còn có thể hiểu là hình ảnh Tết tại quê nhà Việt Nam nếu chủ thể đang sinh sống, học tập và làm việc ở nước ngoài. TẾT PHỐ: là hoàn cảnh đối ngược với Tết quê, dùng khi nói đến cảnh tượng đón xuân tại những nơi thành thị. Thường gắn với các hình ảnh của sự nhộn nhịp, tấp nập, lộng lẫy, diễm lệ, sang trọng, thế nên, khái niệm Tết phố không chỉ dừng lại ở việc biểu thị địa điểm đón Tết mà còn ẩn chứa các tầng nghĩa về thói quen, hành vi, tâm lý đón Tết của một nhóm người gắn bó với bối cảnh thị thành. TẾT XA NHÀ: là từ ngữ nặng trĩu tâm tư của những người con phải chịu cảnh đón chào Tết đến xuân về trong hoàn cảnh không thể trở về quê hương (có thể là cả nông thôn lẫn thành thị) hoặc không thể trở về sum họp cùng gia đình do phải trực ban ở cơ quan, nơi công tác đối với các ngành nghề đặc thù thuộc các lĩnh vực như y tế, an ninh, báo chí, buôn bán… TẾT CHẬM: là một khái niệm liên quan đến một quan niệm/ quan điểm rộng hơn: sống chậm. Theo đó, khuyến khích mỗi người từ tốn cảm nhận cảm xúc của bản thân trong từng phút giây trôi qua. Vẫn đề cao phương châm “thời gian là vàng bạc” nhưng không phải là ra sức chạy đua với thời gian để hòng tìm kiếm công danh tiền bạc, mà là làm bạn thật sự với thời gian, cùng đi tìm hiểu đến tận cùng của niềm thấu hiểu về sự sống. Vậy nên, Tết chậm được hiểu là khoảng thời gian hân thưởng những ưu đãi của thiên nhiên đất trời đương rạo rực vào xuân, thay vì phải tất bật với những trói buộc đang vây bủa lấy lấy sự ngơi nghỉ của cả thể xác lẫn tâm hồn. TẾT TRỰC TUYẾN (TẾT ONLINE): cụm danh từ được sinh ra trong bối cảnh hiện đại của thời kỳ công nghệ. Khái niệm này một mặt vinh danh các ý nghĩa tích cực của sự phát triển hiện đại hóa, song mặt khác cũng có sắc thái ám chỉ mong muốn được trở lại khoảnh khắc quây quần bên nhau và đón mừng năm mới như Tết trực tiếp truyền thống: thắm thiết và giản dị. TẾT BÌNH THƯỜNG MỚI: có lẽ là cụm danh từ đặc biệt nhất trong những từ ngữ định danh khi nhắc đến Tết. Không chỉ phản ánh lịch sử thời đại trước cơn đại dịch toàn cầu hay đơn thuần chỉ là mang ý nghĩa khẩu hiệu hô hào tuyên truyền, khái niệm Tết bình thường mới còn được dùng để thiết lập, tạo dựng một nếp sống mới, khuyến khích người dân mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp xã hội đồng sức đồng lòng chung tay trong công tác phòng, chống dịch Covid-19, tất cả hướng đến mục tiêu Tết an lành, Tết không dịch bệnh.

0 lượt xem
2 đáp án
2 giờ trước