Chứng minh văn hóa đông nam á tiếp thu ảnh hưởng từ văn hóa ấn độ
1 câu trả lời
ĐÔNG NAM Á TIẾP XÚC VĂN HÓA ẤN ĐỘ
Đông Nam Á là môt khu vực lịch sử - văn hóa đặc biệt, có nền tảng chung được sản sinh trong điều kiện tự nhiên thuận lợi ở khu vực, đồng thời nơi đây là cái nôi của nền nông nghiệp lúa nước từ lâu đời, trải dài từ phía Nam sông Dương Tử đến vùng Đông Bắc Ấn Độ và thậm chí sang cả châu Đại Dương. Trong lịch sử phát triển của mình, người dân các nước Đông Nam Á đã không ngừng củng cố văn hóa bản địa, tăng cường tiếp thu nền văn hóa bên ngoài, trong đó có văn hóa Ấn Độ, tạo điều kiện để văn hóa này giao thoa với Đông Nam Á và để lại những dấu ấn văn hóa rất riêng, đậm chất Ấn Độ ở khu vực Đông Nam Á. Chính việc giao thoa giữa Ấn Độ với Đông Nam Á đã hình thành nhiều nền văn hóa khác nhau trên vùng đất này. Tất cả đã tạo nên sự thống nhất và đa dạng của văn hóa khu vực Đông Nam Á ngày nay. Trong tham luận này, chúng tôi không có tham vọng trình bày hết về những dấu ấn tiêu biểu của Ấn Độ trong giao thoa văn hóa với Đông Nam Á, mà chỉ muốn trình bày những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Ấn Độ trong việc giao thoa, tạo dấu ấn riêng biệt ở Đông Nam Á về một số lĩnh vực chủ yếu, từ đó giúp người đọc có cái nhìn toàn cục về những dấu ấn của văn hóa Ấn Độ trong văn hóa Đông Nam Á, từ đó giúp củng cố và phát triển quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ngày càng bền vững và lâu dài.
1. Khái quát về khu vực Đông Nam Á và quá trình tiếp xúc văn hóa Ấn Độ vào khu vực Đông Nam Á
1.1. Khái quát về Đông Nam Á
Đông Nam Á – khu vực nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ - từ lâu được xem là một khu vực địa lý - lịch sử, văn hóa, đồng thời cũng là một trong những trung tâm văn minh phát triển nhất thế giới với nhiều nét phát triển độc đáo. Về vị trí địa lý thì đây là một khu vực khá rộng lớn với diện tích là 4,45 triệu km2, dân số là 568,3 triệu người (số liệu năm 2012); phạm vi khu vực khu vực trải dài trên một phần Trái Đất từ 92 – 140oĐ và từ 28oB đến 15oN. Về địa lý hành chính, khu vực này gồm 2 phần đất liền và hải đảo, gồm 11 quốc gia là Brunei, Campuchia, Đông Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, Philippines, Singapore và Việt Nam. Với vị trí địa lý và phạm vi hết sức rộng lớn như vậy, Đông Nam Á đã gần như thừa hưởng tất cả mọi đặc điểm mà hầu hết các vùng khác trên thế giới đều có: khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, cảnh quan sinh thái rất phong phú và đa dạng. Ở Đông Nam Á do điều kiện địa lý của mình nên ngay từ thời xưa, Đông Nam Á đã là nơi chịu ảnh hưởng của gió mùa (gió Tín phong, gió mậu dịch) nên thời tiết ở khu vực này tương đối dễ chịu, con người sống một cuộc sống thoải mái, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới lớn và cũng chính vì thế mà Đông Nam Á trở thành quê hương của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, cây gia vị và hương liệu. Ngoài ra, do vị trí địa lý đặc biệt của mình nên Đông Nam Á từ lâu đã là nơi đan xen của nhiều loại địa bàn quy tụ như đồi núi, duyên hải, đồng bằng, ven biển đã góp phần tạo nên sự đa dạng và phong phú của văn hóa tộc người ở khu vực Đông Nam Á[1]. Trong quá trình phát triển của mình, lãnh thổ Đông Nam Á gần tương đương với hiện nay cùng với nền văn hóa Nam Á đặc trưng, mang tính bản địa sâu sắc. Cư dân Đông Nam Á hiện nay là nói 4 ngữ hệ chính: Thái – Kadai, Nam Á, Nam Đảo, Tạng – Miến. Về mặt nhân chủng, cư dân Đông Nam Á thuộc tiểu chủng Mongoloid phương Nam, người Indonesiens cổ là tộc người đầu tiên và là tổ tiên của các tộc người có mặt ở khu vực Đông Nam Á rộng lớn này. Tộc người này trong quá trình phát triển (gốc gác là ở Trung Quốc, nhiều nhất ở Nam Trường Giang) đã thực hiện nhiều cuộc di cư lớn về phía Nam; nhưng tiêu biểu nhất là sự kiện quân Tần tấn công vùng Lĩnh Nam (tức nước Việt cổ) vào cuối thế kỷ III TCN. Trong cuộc tấn công này, trong khi một số nhóm người Việt trụ lại ở Bắc Việt Nam và hình thành các tộc người Việt (Bách Việt, Nam Việt, Đông Việt…) thì nhiều nhóm người Indonesiens di cư vào phía Nam và dần bị phân hóa: một nhóm Indonesiens nói ngữ hệ Nam Á chạy xuống vùng Miến Điện, Bắc Campuchia và hình thành người Môn; đại bộ phận người Indonesiens còn lại rút về phía Nam. Ở Trung Bộ (vùng Quảng Nam – Quảng Ngãi), người Indonesiens phân thành 5 tộc người là Churu, Giarai, Raglai, Edeh và Chăm. Người Chăm chịu ảnh hưởng của Ấn Độ giáo nên sống ở miền biển, 4 tộc người còn lại dị ứng với văn hóa Ấn Độ thì rút lên Tây Nguyên ở, giữ lại tính Indonesiens bản địa, nói ngữ hệ Nam Á; một số tộc khác như Stieng, Mạ sinh sống ở vùng Đông Nam Bộ ngày nay[2]. Chính sự di cư, phân hóa giữa các dân tộc trong khu vực đã làm cho dân cư Đông Nam Á phong phú, đa dạng như ngày nay.
Do vị trí địa lý nằm ngay trên con đường hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương cho nên Đông Nam Á ngay từ rất lâu đã được coi là hành lang, cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải. Ngay từ sớm, đã có nhiều thương nhân, người đi buôn đóng thuyền vượt biển sang buôn bán ở Đông Nam Á. Theo tài liệu khảo cổ học, W. G. Solheim II nhận định những người sống ở vùng duyên hải Zulu, Mindanao, Borneo là những người đầu tiên đóng thuyền vượt biển sang các vùng khác để trao đổi, buôn bán từ 9.000 năm trước đây[3]. Thư tịch cổ Trung Hoa cũng ghi nhận các sư tăng như Khang Thái, Pháp Hiển, Nghĩa Tĩnh, Trịnh Hòa, Chu Đạt Quan và Marco Polo đều đi thuyền sang Đông Nam Á với các vai trò như buôn bán, truyền đạo hay lo công việc nhà nước. Họ đã ghi chép và để lại nhiều tài liệu quý cho chúng ta nghiên cứu về Đông Nam Á. Người Trung Quốc thời xưa gọi là Nam Dương (chỉ những nước nằm ở vùng đất phía Nam Trung Quốc); Nhật Bàn gọi là Nam Yo (Nam Dương); người Arab gọi là Waq Waq, Zabag; người Ấn Độ gọi là Suvanabhumi (Đất Vàng). Trong Thế chiến 2, Lord Mountbatten (người thống lĩnh Bộ Tư lệnh tối cao của Anh ở Đông Nam Á) đã gọi vùng đất này là Southeast-Asia.
Như vậy thì với vị trí địa lý thuận lợi này đã tạo điều kiện cho cư dân Đông Nam Á phát huy những thành tựu mình đạt được trong khu vực, đồng thời còn muốn tiếp nhận và giao lưu với các nền văn hóa bên ngoài khu vực để làm văn hóa trong khu vực thêm phong phú, đa dạng hơn và tạo sự phát triển mạnh mẽ hơn trong khu vực Đông Nam Á vốn đa dạng này; trong đó nền văn hóa Ấn Độ là nền văn hóa tiêu biểu nhất và đó cũng chính là vấn đề chính mà chúng tôi muốn đề cập trong bài tham luận này. Ấn Độ là một quốc gia rộng lớn do người Arya thành lập vào thiên niên kỷ II – I TCN ở miền Bắc Ấn Độ. Người Arya xâm nhập vào Ấn Độ vào năm 1500 TCN, chiếm đất của người bản địa Dravida và nhanh chóng xác lập sự thống trị của mình ở Ấn Độ ở thời kỳ Vedda (1.500 – 1.000 TCN). Đến thời kỳ thành lập nhà nước, người Arya bắt đầu tạo lập nền văn hóa Ấn Độ sơ khai: công nhận Balamon là quốc giáo, hai sử thi Mahabharata - Ramayana của Balamon và 2 tôn giáo lớn là đạo Phật, đạo Jaina ra đời[4] và cho ra nhiều thành tựu đặc sắc. Đến thời kỳ vương triều Morya của đế quốc Magadha (321 – 187 TCN) và vương triều Gupta – Harsha (320 – 647) thì văn hóa Ấn Độ mới có điều kiện thuận lợi để tràn xuống phía Nam và ảnh hưởng ra xung quanh, trong đó có vùng Đông Nam Á rộng lớn này. Đối với vùng đất Đông Nam Á này, văn hóa Ấn Độ đã xâm nhập vào sâu trong vùng đất này, phát triển và bước đầu tạo những dấu ấn riêng biệt góp phần làm cho văn hóa Đông Nam Á vốn đã đa dạng trên nền tảng nền văn hóa bản địa vốn có từ lâu đời lại càng phát triển, tạo nên nền văn hóa ở Đông Nam Á phong phú, đa dạng như hiện nay.
1.2. Quá trình du nhập và lan tỏa của văn hóa Ấn Độ vào khu vực Đông Nam Á
Trước khi người Hồi và người phương Tây biết tới Đông Nam Á thì người Ấn Độ đã biết đến vùng đất này từ khá sớm, khoảng thiên niên kỷ II – I TCN. Nhiều tài liệu lịch sử ghi nhận, trong thời kỳ này đã có người Ấn Độ đến vùng Đông Nam Á, nhưng người ta cũng chưa rõ là họ đến đây từ sớm để làm gì (buôn bán, truyền giáo ?) mà chỉ biết rằng, họ đến nơi này để tìm vàng vì nhiều sách viết rằng, nơi đây có nhiều vàng (nhiều tài liệu gọi là Suvanabhumi – Xứ sở Vàng), nhiều hương liệu quý giá nên đã kích thích họ đến vùng Đông Nam Á này; tuy nhiên vào thời kỳ đó thì dân cư cũng còn thưa thớt (vài chục đến vài trăm nghìn người), phương tiện di chuyển còn thiếu thốn nên việc sang khu vực Đông Nam Á có phần bị hạn chế. Nhưng về sau, do nhu cầu phát triển kinh tế, cộng với dân cư tăng nhanh và phương tiện di chuyển trên biển được cải tiến nhiều, người Ấn Độ đã có thể đi sang Đông Nam Á và lúc này, mục đích rõ ràng hơn: họ không phải đến đây tìm vàng nữa mà đến để trao đổi, buôn bán với các xứ khác.
Niddesa, một thư tịch Phật giáo viết bằng tiếng Pali đã ghi nhận, người Ấn Độ đã thường xuyên qua lại ở các địa điểm: Takkola (chợ Đậu khấu) ở Bắc Malaysia, Kupuradvipa (Đảo Long não), Nakikelavidpa (Đảo Dừa) và Đảo Vàng – chỉ vùng Indonesia; với mục đích là buôn bán các sản vật quý, gia vị, hương liệu… với Đông Nam Á để trao đổi với các xứ khác. Đặc biệt thì từ sau Đại hội Phật giáo đầu tiên ở Pataliputra (242 TCN), đại đế của nước Magadha là Ashoka đã khuyến khích các nhà sư, nhà tu hành Ấn Độ sang Đông Nam Á, trước hết là Ceylan, Myanmar, Malayu (thuộc Malaysia)… mà dấu tích còn để lại ở vùng lưu vực Menam: các tượng Phật theo phong cách Dvaravati ở Myanmar; tượng Phật ở Đồng Dương, Sumatra và một số hiện vật ở Óc Eo (An Giang). Tiếp đó, từ thế kỷ I – II thì do Ấn Độ loạn lạc nên làn sóng di cư của người Ấn Độ sang Đông Nam Á ngày càng nhiều hơn, mà nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này có thể là:
Thứ nhất, một số tiểu quốc, vương quốc lớn thấy dân cư của vương quốc mình quá nhiều nên ra chính sách di cư để đưa dân sang nơi khác để tránh sức ép về gia tăng dân số; tiêu biểu là các vương quốc Kushan, Adhra, Gupta… Dưới tác động của chính sách trên, nhiều người Ấn đã di cư sang các vùng đất mới lạ ở Đông Nam Á, thiết lập các khu định cư và thường thì các khu định cư là tên của các địa danh Ấn Độ cũ: Campuchia – tên gốc là Kambuja (một thành phố nổi tiếng ở Tây Bắc Ấn Độ cổ xưa).
Thứ hai, người Ấn Độ di cư mạnh mẽ sang Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, trước hết là do sự gần gũi về địa lý, sự tương đồng về cơ tầng văn minh nông nghiệp cổ xưa, sự giống nhau về phong tục tập quán, văn hóa dân gian, di tích khảo cổ…
Thứ ba, do nhu cầu tìm sản vật địa phương và mở rộng địa bàn buôn bán mới. Đúng như vậy, việc các lái buôn Ấn thi nhau sang tìm vàng ở khu vực Đông Nam Á đã đẩy nhanh tốc độ giao lưu, giao thoa văn hóa giữa hai khu vực. Do được buôn bán ở Đông Nam Á, người Ấn Độ học được của họ kỹ thuật hàng hải – nghề đi biển, một thứ kỹ thuật mà xưa kia họ chưa hề biết đến, hoặc nếu có thì biết qua sách vở chứ chưa có thực tế. Họ học được nghề đóng thuyền, đóng tàu buồm lợi dụng sức gió mùa của người Ba Tư để chở nhiều người (600 – 700 người), thực hiện chuyến đi dài ngày trên biển và vận chuyển nhiều hàng hóa hơn để sang khu vực Đông Nam Á trao đổi, buôn bán. Để tạo điều kiện cho các chuyến đi biển diễn ra thuận lợi, người Ấn Độ lập chợ búa, hải cảng ở Nam Ấn, Đông Ấn, Java, Malaya… để hoạt động đường biển được tiện lợi hơn.
Thứ tư, đó là do sự phát triển của các tôn giáo, nhất là Phật giáo; các tư tưởng của Phật giáo nhanh chóng phát triển thuận lợi là do giáo lý của nó. Trước kia, người Ấn Độ theo Balamon giáo rất sợ tiếp xúc với người bên ngoài, vì nếu tiếp xúc thì họ sẽ bị xem là “không trong sạch” và bị đuổi ra khỏi đẳng cấp. Quy định ngặt nghèo đó phần nào cản trở việc xuất dương của họ ra bên ngoài. Nhưng các tín đồ Phật giáo đã gạt bỏ những điều cấm đoán đó; dùng tư tưởng “không thành kiến về chủng tộc” của mình để mở đường cho người Ấn Độ di cư sang Đông Nam Á một cách thuận lợi. Tận dụng điều kiện thuận lợi đó, nhiều thương nhân, nhà tu hành vả thủy thủ và cả những vị tu sĩ Balamon đã vứt bỏ thành kiến đã xuất dương sang Đông Nam Á. Đông Nam Á với những mảnh đất xanh tươi màu mỡ, dân cư hiền hòa và hiếu khách đã hấp dẫn họ. Khi định cư hẳn nơi này, họ bắt đầu lập những khu định cư rồi sau đó biến những nơi này thành những trung tâm văn hóa, kinh tế với biểu hiện ngày càng rõ nét của văn hóa Ấn Độ, đồng thời có sự đan xen của văn hóa địa phương.
Ở những nơi thuận lợi, từ các tổ chức kinh tế sơ khởi thì người Ấn Độ bắt đầu hình thành các quốc gia chính trị có tổ chức; và các quốc gia này được người phương Tây gọi là các quốc gia “Ấn Độ hóa” (Hindouisés – từ dùng của Coedes) và thời kỳ này người ta gọi là thời kỳ “Ấn Độ hóa”. Mặc dù cách dùng như vậy chưa đúng lắm vì nhiều quốc gia ở khu vực Đông Nam Á còn đang thời kỳ tiền văn minh, mông muội và những nước này vẫn còn giữ lại bản sắc văn hóa dân tộc riêng mình, khác Ấn. Chúng ta dùng thuật ngữ “Ấn Độ hóa” với 2 ý nghĩa: Một là, “Ấn Độ hóa” là chỉ các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ; Hai là, “Ấn Độ hóa” còn có ý nghĩa chỉ một quá trình dài ngày diễn ra trong nhiều thế kỷ, thâm chí cho đến nay ngoài hàm ý dẫn dắt, hướng dẫn người dân hướng theo tôn giáo mới (Ấn Độ giáo, Phật giáo), còn cố gắng sàng lọc những cái gì không phải của Ấn Độ và cố gắng cho trào lưu này (ý nói: trào lưu Ấn Độ hóa) được hiện thực hóa trong cuộc sống hàng ngày từ chính trị, kinh tế đến văn hóa – nghệ thuật[5]. Về thực chất, công cuộc “Ấn Độ hóa” của người Ấn Độ đến Đông Nam Á không phải là dùng vũ lực để đánh chiếm, mà là cuộc thâm nhập hòa bình không có kế hoạch nào cả. Các quốc gia này không lệ thuộc vào Ấn Độ mà nó chỉ quan hệ với người Ấn về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên, kết quả của sự thâm nhập đó là hết sức to lớn: thúc đẩy nhanh quá trình truyền bá văn minh Ấn Độ sang Đông Nam Á, góp phần đẩy mạnh quá trình tan rã của công xã thị tộc bộ lạc và sự hình thành xã hội có giai cấp và nhà nước ở đây; đồng thời thì ảnh hưởng này cũng lan rộng trong chiều dài lịch sử các nước Đông Nam Á về sau này.
Theo Thái Nguyễn Đức Minh Quân