Cảm nhận về nhân vật người đàn bà bà hàng chài trong truyện ngắn "chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu

2 câu trả lời

I, MB: Sau năm 1975 đất nước bước ra khỏi hoàn cảnh thời chiến, bước vào giai đoạn xây dựng phát triển trong quỹ đạo hòa bình, mở ra cho văn học những tiền để mới. Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu cần phải đổi mới tư duy văn học. Ngòi bút ông dành sự quan tâm đặc biệt về những vấn đề thế sự mà tâm điểm là con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, kiếm tìm hạnh phúc, hoàn thiện nhân cách. Nhắc đến những tác phẩm tiêu biểu của ông, thật thiếu sót nếu không kể đến "Chiếc thuyền ngoài xa". Truyện ngắn  đã để lại ấn tượng trong người đọc bằng hình ảnh người đàn bà hàng chài. 

II, TB 

1, Khái quát chung

-“CTNX” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Với tác phẩm này, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc).

- Truyện được sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê”. Sau được tác giả đưa vào tập “CTNX”, năm 1988.“CTNX” là tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sáng tác sau 1975, là tác phẩm đánh dấu sự thành công quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

2, Phân tích 

a) Lai lịch

- Người đàn bà hàng chài là con một gia đình khá giả trong phố, sống bằng nghề buôn bả. Nhưng xấu, rỗ mặt nên trong phố không ai lấy. -

Bà ta có mang với một anh nhà hàng chài cục tính nhưng hiền lành, không bao giờ đánh đập vợ. Lời kể của nhà văn ngắn gọn hé mở về một cuộc sống không bình lặng của người đàn bà làng chài. Những vất vả trong cuộc sống hiện hình trên khuôn mặt người đàn bà ấy.

b) Ngoại hình

- Chân dung của người đàn bà được tái hiện qua lời kể, tả :Người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi với thân hình cao lớn, đường nét thô kệch. Khuôn mặt rỗ; mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới , tái ngắt và dường như đang buồn ngủ. Chiếc  áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Những chi tiết nhà văn kể và miêu tả cho ta thấy chân dung của một người đàn bà làng chài xấu xí, nghèo khổ, lam lũ vất vả vì cuộc mưu sinh.

- Nhưng người đàn bà ấy vẫn để lộ ra cái sắc sảo để kích thích trí tò mò của hai nhân vật Phùng và Đẩu bằng :

+ Giọng nói khẩn thiết.

+ Con mắt như đang nhìn thấu suốt cả đời mình. Đó là sự sắc sảo của một người đàn bà từng trải. c) Số phận : bất hạnh

- Cuộc sống nghèo khó ( một trong lục cực của con người ).

+ Con đông: cả gia đình mười một người ở trên một chiếc thuyền.

+ Đói khổ : ngày đói phải ăn xương rồng luộc chấm muối.

- Cùng chồng vật lộn vì mưu sinh nhưng vẫn bị chồng ngược đãi tàn nhẫn.

d) Tính cách, Phẩm chất

- Yêu thương con, sống để cho con:

+ Nhẫn nhục cam chịu vì con. Giấu con không cho con biết mình bị chồng hành hạ. Xin chồng không đánh mình ở trên thuyền. Đau đớn khi đứa con đánh bố. Xấu hổ, nhục nhã vì đánh mất niềm tin ở con. + Hạnh phúc khi thấy con được ăn no. Đó là tình mẫu tử sâu nặng.

- Vị tha, độ lượng: + Không oán giận chồng. + Xin quý toà đừng bắt bỏ chồng. Đó là vẻ đẹp trong tâm hồn của người đàn bà làng chài. Cái nhìn sâu sắc . Tác giảđã Dùng lời kể, tả, đối thoại để khắc hoạ tính cách, phẩm chất của nhân vật.

* Qua tác phẩm, tác giả đã khắc hoạ rõ nét những phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà hàng chài, giàu tình yêu thương, đức hy sinh, lòng vị tha. Đó là vẻ đẹp lẩn khuất giữa cuộc sống lam lũ đời thường

3, Đánh giá chung

-ND, NT

III, KB;Khẳng định vẻ đẹpnhân vật và tấm lòng tác giả

*Bài làm

Sau năm 1975 đất nước bước ra khỏi hoàn cảnh thời chiến, bước vào giai đoạn xây dựng phát triển trong quỹ đạo hòa bình, mở ra cho văn học những tiền để mới. Nguyễn Minh Châu sớm ý thức được yêu cầu cần phải đổi mới tư duy văn học. Ngòi bút ông dành sự quan tâm đặc biệt về những vấn đề thế sự mà tâm điểm là con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, kiếm tìm hạnh phúc, hoàn thiện nhân cách. Nhắc đến những tác phẩm tiêu biểu của ông, thật thiếu sót nếu không kể đến "Chiếc thuyền ngoài xa". Truyện ngắn  đã Truyện ngắn  đã để lại ấn tượng trong người đọc bằng hình ảnh người đàn bà hàng chài. 

“CTNX” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Với tác phẩm này, Nguyễn Minh Châu xứng đáng là “nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Truyện được sáng tác năm 1983, in lần đầu trong tập “Bến quê”. Sau được tác giả đưa vào tập “CTNX”, năm 1988.“CTNX” là tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu trong giai đoạn sáng tác sau 1975, là tác phẩm đánh dấu sự thành công quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây, Đó là một người đàn bà trach ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi "mụ", " người đàn bà hàng chài" như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với " một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ". Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo khổ ấy còn hiện lên trên "tấm áo bạc phếch có miếng vá, bửa thân dưới ướt sũng". Từ cách hành xử, đi đứng đến " tìm đến một góc tường để ngồi" càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh " ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng".

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ , lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã " chấp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí". Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng " quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó". Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn. Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí phèo của Nam cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng : thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn. Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho môt người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi " vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no". Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hi sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Tháp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Bạn tham khảo,hức _-_

Đã nêu cảm nhận,đánh dấu chấm nhẹ.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm

Giúp em với ạ!

Câu 1: Nội dung nào của Hiệp định Giơnevơ ghi nhận tư cách của Việt Nam như là thành viên của Liên hợp quốc?

A. Không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

B. Thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

C. Thực hiện tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực.

D. Thành lập khu phi quân sự hai bên giới tuyến của vĩ tuyến 17.

Câu 2: Điểm chung trong kế hoạch Rơve (1949) và kế hoạch Nava (1953) là?

A. nhanh chóng kết thúc chiến tranh.

B. bảo vệ chính quyền Bảo Đại do Pháp lập ra.

C. muốn xoay chuyển cục diện chiến tranh.

D. phô trương tiềm lực và sức mạnh của Pháp.

Câu 3: Nguyên nhân khách quan tạo nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954) là

A. Nhật đầu hàng đồng minh.

B. Đồng minh vào Đông Dương.

C. Liên Xô tấn công Pháp.

D. Đoàn kết chiến đấu của ba nước Đông Dương.

Câu 4: Lí do cơ bản dẫn đến tình trạng chia cắt đất nước Việt Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 là

A. hai miền có sự khác biệt về kinh tế, xã hội.

B. Pháp, Mĩ không chịu thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ.

C. mâu thuẫn về quyền lợi của các cường quốc trên lãnh thổ Việt Nam.

D. Pháp không thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Câu 5: Sau Hiệp định Giơnevơ, đất nước ta lại bị chia cắt là do

A. âm mưu phá hoại Hiệp định của Pháp.

B. Mĩ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới.

C. những quy định của Hiệp định Giơ ne vơ.

D. sự can thiệp của quốc tế.

6 lượt xem
1 đáp án
11 giờ trước