2 câu trả lời
1. Những tín hiệu giao mùa và cảm xúc thi nhân:
* Tín hiệu:
- “Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới có những tín hiệu đầu tiên.
- Trước những sự thay đổi tinh vi ấy, phải nhạy cảm lắm mới cảm nhận được.
- Với Hữu Thỉnh mùa thu bắt đầu thật giản dị:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
+ Nếu trong “Đây mùa thu tới” cảm nhận thu sang của Xuân Diệu là rặng liễu thu buồn ven hồ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang - Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng” thì Hữu Thỉnh lại cảm nhận về một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” - thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” - mủi hương đặc sản của dân tộc, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam.
+ Mùi hương ấy không hòa vào quyện vào mà “phả” vào trong gió. “Phả” nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra từng luồng. Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tượng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chi một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Hình như hương thu như cố tình giấu mình trong trái ngọt chỉ đợi gió se về là bất ngờ tung mình vào gió để gió hào phóng chia hương đi muôn phương.
-> Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị. Ông đã phát hiện một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tinh tế hơn cả là cách nhà thơ phát hiện ra thu tới trong cách nhả hương vào gió.
+ Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thường hiện ra qua các hình ảnh ước lệ như “ngô đồng”, “rặng liễu”, “lá vàng mờ phai”, “hoa cúc”.. .thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhung lại vô cùng quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ thu về.
+ “Hương ổi” gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Chính Hữu Thỉnh đã tâm sự rằng: “Giữa trời đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông... Nó giống như mùi bờ bãi, mùa con trẻ...Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ...”.
-> Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa se lạnh ấy là sứ giả của mùa thu (cũng như chim én là sứ giả của mùa xuân). Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ”đến mức chỉ một chút vô tình thôi là không một ai hay biết.
-> Có thể nói trước Hữu Thỉnh có rất nhiều nhà thơ viết về mùa thu nhưng đây là một phát hiện tinh tế của một hồn thơ xứ sở.
Nếu hai câu đầu diễn tả cái cảm giác chưa hẳn đủ tin thì đến hình ảnh “Sương chùng chình qua ngõ” lại càng lung linh huyền ảo.
+ Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “ Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những làn sương mỏng, mềm mại, giăng màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên.
+ Nhà thơ đã nhân hóa màn sương qua từ “chùng chình” khiến cho sương thu chứa đầy tâm trạng. Nó như đang chờ đợi ai hay lưu luyến điều gì? Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc.
=> Bằng tất cả các giác quan: khứu giác, xúc giác và thị giác, nhà thơ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Có “hương ổi”, “gió se” và “sương”. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà nhà thơ vẫn còn dè dặt: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá.
* Cảm nhận của nhà thơ:
- Ngạc nhiên, ngỡ ngàng, xao động khi bất chợt nhận ra hương vị ấm nồng của ổi chín
- Dễ chịu, lâng lâng khi cảm nhận được làn gió heo may se se lạnh
- Giật mình bối rối “Hình như thu đã về”
- Bâng khuâng xao xuyến, luyến lưu trong tâm hồn khi nhận ra bước chuyển mình của thời gian
=> Đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống.
2. Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
- Bức tranh mùa thu được cảm nhận bởi sự thay đổi của đất trời theo tốc độ di chuyển từ hạ sang thu, nhẹ nhàng mà rõ rệt. Thiên nhiên sang thu đã được cụ thể bằng những hình ảnh: “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “ đám mây vắt nửa mình”. Như thể, thiên nhiên đã được quan sát ở một không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn. Và bức tranh sang thu từ những gì vô hình như “hương ổi” từ nhỏ hẹp như con ngõ chuyển sang những nét hữu hình, cụ thể với một không gian vừa dài rộng, vừa xa vời.
- Tác giả cảm nhận thu sang bằng cả tâm hồn:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
+ Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào những ngày giao mùa. Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ mà không chảy xiết như sau những cơn mưa mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu ,mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời.
+ Trái ngược với vẻ khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những cánh chim trời bắt đầu di trú về phương Nam. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.
-> Hai câu thơ đối nhau rẩt nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa. Phải tinh tế lắm thì nhà thơ mới có thể cảm nhận được cái “vội vã” vừa mới “bắt đầu” trong nhịp cánh đó. Phải chăng đó cũng là sự “vội vã”, hối hả, khẩn trương để hoàn thành bao công việc còn dang dở khi con người đã bắt đầu bước sang mùa thu của cuộc đời?
-> Nhà thơ đã gợi ra tốc độ trái chiều của thiên nhiên, của sự vật để tạo ra một bức tranh mùa thu đang về có những nét dịu êm, nhẹ nhàng, lại có những nét hối hả, vội vã.
(Ý thơ đồng thời còn gợi cho người đọc một liên tưởng khác: Sự chuyển động của dòng sông, của cánh chim phải chăng còn là sự chuyển mình của đất nước. Cả đất nước ta vừa trải qua chiến tranh tàn khốc mới có được hòa bình, và giờ đây mới được sống một cuộc sống yên bình, êm ả. Nhưng rồi môi người mới để xây dựng đất nước trong niềm vui rộn ràng)
- Đất trời mùa thu như đang rùng mình để thay áo mới. Cả bầu trời mùa thu cũng có sự thay đổi:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
+ Trong thơ ca Việt Nam, không ít những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến - “Thu điếu”)
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” (Huy Cận - “Tràng giang”)
- Sang thu là thời gian, là bước chuyển vốn rất âm thầm, vô hình của tạo vật. Thế nhưng qua câu thơ của Hữu Thỉnh, khoảnh khắc thời gian quá mong manh kia lại ra hữu hình. Chi tiết “vắt nửa mình” quá đỗi yểu điệu, nhẹ nhàng. Ranh giới hạ và thu bỗng được xác định trong đôi mắt thi sĩ đắm say cùng cảnh vật!
- Thu đang ở nơi cửa ngõ của mùa nên mới “có đám mây mùa hạ” đang hững hờ “vắt nửa mình sang thu”. Nghệ thuật nhân hóa, động từ “vắt” làm hình ảnh thơ sống động, có hồn, câu thơ giàu sức tạo hình, diễn tả đám mây như dải lụa mềm mại vắt ngang bầu trời hay đang vắt từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu. Dường như hạ chưa qua hẳn và thu còn chưa thực sự tới. Giữa hai mùa tựa hồ như có một ranh giới mong manh mà đám mây chính là nhịp cầu duyên dáng nối hai bờ liên tưởng ấy.
- Lối diễn đạt của tác giả thật độc đáo. Hình như trong đám mây đó còn vương lại sắc nắng rực rỡ của mùa hạ sôi động. Cái tài hoa của nhà thơ là ở chỗ lấy không gian để miêu tả thời gian, lấy cái hữu hình để miêu tả cái vô hình. Đám mây, một sự liên tưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ trở thành nhịp cầu Ô Thước nối hai bờ hạ thu. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc...mà còn đọng lại nhũng nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu.
-> Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ.
=> Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị.
=> Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài (dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu.
=> Các hình ảnh sự vật trong khổ hai của bài thơ không chỉ hiện lên ở thời điểm hiện tại mà còn dẫn người đọc liên tưởng về quá khứ - về mùa hạ, một quá khứ chưa xa và chắc răng đó là một quá khứ đầy sôi động. Và phải chăng, đó cũng là cảm xúc luyến tiếc những năm tháng tuổi trẻ đầy sôi động ? Để rôi, đâu đó, dâng lên một nỗi niềm tiếc nuối khôn nguôi ở khổ thơ cuối bài.
=> Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng, một suy tư sâu sắc.
3. Những suy tư, chiêm nghiệm của nhà thơ:
- Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc đời:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi”.
- Hình ảnh “Nắng và mưa”:
+ Nắng, mưa vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi - dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu.
+ Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ.
+ Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa.
-> Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớt nhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khác hẳn với khoa học ở chỗ này.
-> Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiên mới cảm nhận thấy điều đó. Thu đã vào sâu trong tạo vật rõ nét đến nỗi có thể đong đếm, lượng mức.
- Ý nghĩa tượng trưng của hình ảnh “sấm” và “hàng cây đứng tuổi”:
Nghĩa thực:
+ Cuối hạ - đầu thu, khi đã vơi đi những cơn mưa xối xả thì sấm cũng bớt bất ngờ và dữ dội. Nó không còn đột ngột, đùng đoàng rền vang cùng với những tia sáng chớp lòe như xé rách bầu trời trong những trận mưa bão tháng 6 tháng 7 nữa.
+ “Hàng cây đứng tuổi” (nghệ thuật nhân hóa) phải chẳng là hàng cây cổ thụ đã bao mùa thay lá, đã đi qua bao cuộc chuyển mùa nên có thể điềm nhiên đứng trước những biến động.
=> Cảnh vật, thời tiết thay đổi. Tât cả vẫn còn nhiều dấu hiệu của mùa hè nhưng giảm dần mức độ, cường độ, để rồi lặng lẽ vào thu qua con mắt quan sát và cảm nhận tinh tế của tác giả.
Nghĩa ẩn dụ:
Hai câu kết của bài thơ không chỉ mang nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa ẩn dụ, gợi những suy nghĩ cho người đọc người nghe:
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
+ “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời.
+ “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải, chỉ đất nước trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. .
-> Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại cửa những tháng ngày sôi nổi với nhũng bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn... trước những chấn động của cuộc đời.
=> Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người, chuyện đất nước, dân tộc. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.