Anh chị hãy làm nổi bật vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở nhân vật Tràng trong chuyện ngắn vợ nhặt xin cho em dàn ý hứa vote 5 sao.
2 câu trả lời
Mở bài
Giới thiệu tác phẩm, nhân vật: Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc của Kim Lân khi viết đề đề tài nạn đói năm 1945. Viết về nạn đói nhưng Vợ nhặt không nhằm mục đích phơi bày cái chết chóc, tác giả đã thể hiện được hơi ấm của tình người cũng như niềm hi vọng vào cuộc sống, điều này được thể hiện rõ nét qua các nhân vật: anh Tràng, chị vợ nhặt, bà cụ Tứ.
2. Thân bài
– Vợ nhặt viết về nạn đói khủng khiếp năm 1945, nạn đói hoành hành khiến cho không gian xã hội trở nên ngột ngạt, tù túng với ám ảnh khủng khiếp về cái chết.
– trên cái nền đen tối, ám ảnh khủng khiếp bởi nạn đói, sự chết chóc ấy vẫn nổi bật lên ánh sáng của tình người, của niềm hi vọng vào sự sống.
– Trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất, những con người khốn khổ vẫn không đánh mất đi những nét đẹp vốn có của mình mà vẫn ánh lên vẻ đẹp của tình thương, của niềm hi vọng.
– Nhân vật Tràng:
+ Tràng là người đàn ông xấu xí, nghèo khổ sống ở xóm Ngụ cư.
+ Tràng hiện lên là một con người ấm áp, giàu tình thương.
+ Thể hiện thái độ trân trọng đối với người vợ nhặt
– Nhân vật người vợ nhặt:
+ Người vợ nhặt là người đàn bà khốn khổ bị nạn đói vắt kiệt sự sống
+ Ban đầu chị ta tạo ấn tượng với người đọc với vẻ chao chát, chỏng lỏn không kém phần vô duyên khi vô tư đòi anh Tràng trả công đẩy xe bò.
Xem thêm: Trình bày những đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Một người Hà Nội
+ Từ khi làm vợ anh Tràng: trở thành người vợ hiêng hậu đúng mực.
+ Chủ động vun ven hạnh phúc gia đình
– Bà cụ Tứ:
+ Nhân vật bà cụ Tứ đã thể hiện rõ nét nhất vẻ đẹp của tình người.
+ sau giây phút ngạc nhiên bà đã chấp nhận người đàn bà như dâu con trong nhà.
+ Không chỉ thương con mà bà cụ Tứ còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai, bà không ngừng động viên các con chịu khó làm ăn.
3. Kết bài
Thông qua ba nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thể hiện nỗi đồng cảm với số phận của con người, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với sức mạnh của tình thương, của niềm hi vọng có thể vượt lên mọi ám ảnh đói khát để tỏa rạng.
bài tập làm văn
Có người đã ví văn học nghệ thuật và hiện thực cuộc sống như một cánh diều, cánh diều dù có bay xa bay cao bao nhiêu cũng được nối với mặt đất bằng sợi dây. Những tác phẩm văn học chân chính có giá trị lâu bền với thời gian bao giờ cũng phản ánh hiện thực và thắp lên cho con người niềm tin hi vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” năm 1962 là một truyện ngắn như vậy. Với bối cảnh nạn đói 1945 bức tranh đó được thể hiện rất rõ nét.
Trước hết ta phải thấy được hoàn cảnh Tràng nhặt được vợ. Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh rất đặc biệt, đó là thời điểm khủng khiếp nhất trong nạn đói năm 1945. Giữa lúc cuộc sống đang tối sầm vì đói khát, nạn đói được ví như một trận đại hồng thủy có sức tàn phá dữ dội “những dãy phố úp sụp tối tăm…”, “những người đói vật vờ như những bóng ma…”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người..”. Tất cả làm lên bức tranh nạn đói thê thảm. Trong hoàn cảnh ấy người ta nghĩ đến việc cứu đói là cấp bách còn hạnh phúc chỉ là thứ xa xỉ, vậy mà Tràng lại lấy được vợ lúc này. Hành động ấy đã làm nổi bật tình huống lạ và độc đáo của câu chuyện, thắp lên tình yêu thương giữa người với người.
Trước tình huống anh Tràng có vợ, đã làm ngạc nhiên cho mọi người. Từ những đứa trẻ con xóm ngụ cư thấy lạ chạy ra xem rồi gào lên “trông vợ hài”. Rồi những người dân đứng trong cửa bàn tán, thắc mắc với nhau “ai đấy nhỉ?…”, “hay là vợ cu Tràng”. Không chỉ người dân xóm ngụ cư ngạc nhiên mà ngay cả bà cụ Tứ - mẹ của Tràng cũng bàng hoàng ngạc nhiên khi con trai có vợ. Bà ngạc nhiên từ ngay câu hỏi vồn vã của anh con trai “sao hôm nay bà lão về muộn thế không biết?”. Bà kinh ngạc hơn nữa khi nhìn thấy người đàn bà ngồi trong nhà và câu chào u của người đàn bà xa lạ. Thậm chí Kim Lân còn đẩy tình huống truyện đến đỉnh điểm khi miêu tả sự ngạc nhiên của Tràng. Bản thân anh cũng không ngờ rằng việc nên vợ nên chồng của mình lại dễ dàng đến thế, chỉ có bốn bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng. Cho nên khi dẫn vợ về nhà, nhìn thấy vợ giữa nhà Tràng vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Đến bây giờ hắn còn ngờ ngợ không phải "ra hắn đã có vợ rồi đấy ư…”. Đến sáng hôm sau nhìn thấy ngôi nhà đã lâu nay được thu dọn sạch sẽ bởi bàn tay người vợ. Hắn không hết bàng hoàng ngạc nhiên việc hắn đã có vợ đến hôm nay hắn vẫn ngỡ ngàng như không phải.
Người dân xóm ngụ cư họ không khỏi ngạc nhiên mà họ còn lo lắng thay cho Tràng “giời đất này còn rước của nợ đời này về, biết có nuôi nổi nhau qua cái kì này không?”. Nhưng câu chuyện lấy vợ của Tràng cũng đem đến cho người dân xóm ngụ cư đói khát ấy một niềm vui “những khuôn mặt u tối hốc hác của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên”. Chuyện Tràng có vợ đã gieo vào tâm hồn của họ niềm hy vọng trong cuộc sống sắp tới. Nó khiến họ rơi vào khoảnh khắc quên đi cái đói cái chết đang lơ lửng trên đầu.
Bà cụ Tứ cũng vậy, bà đón nhận việc Tràng có vợ bằng nụ cười và cả những giọt nước mắt, bà hờn tủi xót xa đau đớn cho bản thân mình cả cho người đàn bà khốn khổ kia. Bởi vì bằng tất cả sự từng trải của người già đã đi qua chuỗi năm tháng nặng nề gian khổ bà hiểu rõ những gì đang chờ đợi hai vợ chồng ở đằng trước. Hơn ai hết bà hiểu rõ việc lấy vợ lấy chồng không nên vào lúc này: "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Biết bao nhiêu dòng nước mắt của người mẹ buồn tủi đã rơi. Bà lo lắng cho con cái “không biết có nuôi nổi nhau qua kì này không”. Vậy mà bằng sức mạnh của sự yêu thương, niềm tin vào sự sống mà bà cụ Tứ đã vượt lên trên tất cả để đón nhận sự vui mừng và hạnh phúc.
Trong bóng tối đau thương tấm lòng cao đẹp của người mẹ vẫn tỏa sáng. Dẫu biết rằng việc lấy vợ lấy chồng là việc không nên diễn ra vào lúc đói khát như lúc này nhưng bà cụ Tứ vẫn vui vẻ chấp nhận “thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Kim Lân đã khéo tìm cho người mẹ già đau khổ ấy một câu nói ẩn chứa sự từng trải của người già, sự bao dung của người mẹ và quan niệm đẹp đẽ của người Việt Nam: "dù có đắng cay cực khổ như thế nào vẫn mừng lòng đón nhận con người, luôn luôn trân trọng con người”. Vì vậy lúc nhìn lại người vợ nhặt bà không thấy cô ta xa lạ nữa mà đã trở thành người thân thuộc: "bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”. Trái tim người mẹ mở rộng đón nhận người phụ nữ xa lạ, đón nhận người ấy là con, là người thân, là con dâu. Bà còn nuôi dưỡng niềm tin hy vọng cho những đứa con: "Biết thế nào hả con? Ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”. Bà an ủi con dâu: "kể có ra làm dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo cũng chả ai người ta chấp chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Câu nói tận tình và bao dung của người mẹ đã làm vơi đi bao tủi cực bẽ bàng của người vợ nhặt. Chỉ một câu nói ấy thôi cũng đủ làm cho người phụ nữ Tràng nhặt về có thể ngẩng cao đầu bước vào ngôi nhà này với tư cách là một người vợ, một người con dâu.
Bằng ngòi bút tinh tế và cái nhìn nhạy cảm, Kim Lân đã vẽ lên một bức tranh hiện thực đầy đau thương mất mát của những năm nạn đói 1945. Không những vậy, mà qua hiện thực đó nhà văn đã cho bạn đọc thấy được tấm lòng yêu thương đùm bọc giữa người với người, thắp sáng cho họ thêm niềm tin vào cuộc sống trong tương lai.
- Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.
- Hào hiệp, thương người khi chia sẻ miếng ăn với người đàn bà xa lạ đang đói khát; khi cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.
- Chu đáo, ân cần khi mua cho chị ta cái thúng con, cùng thị đánh một bữa no nê, mua 2 hào dầu để đánh dấu ngày "nhặt vợ".
- Thái độ tình nghĩa và trách nhiệm: xót xa thương cảm khi nhìn vẻ buồn bã của vợ; trân trọng thương yêu mà không hề rẻ rúng; mong muốn "dự phần tu sửa lại căn nhà"- nơi Tràng sẽ sống với những người mà anh yêu thương...
- Vẻ đẹp trong tâm hồn người "vợ nhặt":
- Lúc đầu đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn mong chạy trốn cái đói, thị đã thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh khốn khổ của Tràng nhưng thị vẫn ở lại ngôi nhà ấy vì thị hiểu mình đã tìm thấy những điều còn quý giá hơn cả miếng ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là tấm lòng nhân hậu của những con người sẵn sàng cưu mang, yêu thương thị khi chính họ đang đói khát.
- Người vợ nhặt đã biến đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn đã thay bằng sự hiền hậu đúng mực, mau mắn trong việc làm, ý tứ trong cư xử.
- Vẻ đẹp trong tâm hồn bà cụ Tứ: Việc con "nhặt vợ" giữa lúc túng đói quay quắt đã khiến bà bất ngờ, ngạc nhiên, nhưng khi đã "hiểu ra bao nhiêu là cơ sự", trong lòng bà chỉ tràn ngập tình thương: thương con, thông cảm với nàng dâu, trăn trở xót xa về bổn phận làm mẹ. Cố tạo niềm vui cho các con ngay trong bữa cơm ngày đói thê thảm khiến cho món ăn của loài vật lại thắm đẫm tình người...
b. "Sự túng đói quay quắt", "hoàn cảnh khốn khổ" không ngăn cản được những người dân xóm ngụ cư hy vọng vào cuộc sống- niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ trong tâm hồn họ.
- Nhân vật Tràng: sau cảm giác "chợn" "sờ sợ" khi "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chưa biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng", Tràng tặc lưỡi, liều lĩnh và từ lúc đó, Tràng cảm nhận hạnh phúc đang và sẽ đến với cuộc đời mình. Việc mua hai hào dầu thắp, cảm giác êm ái lửng lơ như trong giấc mơ đi ra, dự liệu về một tương lai khi hắn sẽ cùng vợ mình sinh con đẻ cái ở đây"... Đặc biệt hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong đầu Tràng đều là biểu hiện của niềm hy vọng mong manh mà vững chắc về tương lai.
- Người "vợ nhặt": sự biến đổi trong thái độ, trong cách cư xử khi cùng mẹ chồng quét tước cửa nhà cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng và sự đổi đời đang âm thầm diễn ra trong lòng thị.
- Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà cắt đặt lo toan công việc, bàn về việc đan phên ngăn phòng, việc nuôi gà, động viên các con bằng cả triết lý dân gian "ai giàu ba họ, ai khó ba đời", cùng con thu dọn cửa nhà cho quang quẻ.
3. Đánh giá chung:
- Tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống đã làm nên vẻ đẹp vừa "thấm thía cảm động", vừa rạng rỡ trong tâm hồn những người dân xóm ngụ cư.
- Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ