1.Đời sống vật chất, tinh thần và tổ chức xã hội trong giai đoạn đầu của xã hội nguyên thuỷ. (khái niệm Thị tộc, Bộ Lạc) 2.Điều kiện tự nhiên, những thành tựu văn hóa của phương Đông cổ đại và Phương Tây cổ đại. 3.Sự hình thành xã hội phong kiến ở Trung Quốc và các quan hệ trong xã hội. sự phát triển đỉnh cao của CĐPK Trung Quốc dưới thời Đường 4.Những thành tựu văn hóa tiêu biểu của Trung Quốc thời phong kiến 5.Sự thành lập các vương triều Gúp- ta, Mô-gôn và Đê-li. 6. Tình hình chính trị, kinh tế, chính trị, văn hóa ở thời kì vương triều Mô-gôn và Đê-li. 7.Sự định hình, phát triển của văn hóa Ấn Độ dưới thời kì vương triều Gúp ta. Liên hệ ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ đến khu vực Đông Nam Á. 8.Nét chính về điều kiện hình thành và sự ra đời của các vương quốc cổ ở Đông Nam Á. 9.Biểu hiện của sự phát triển và suy thoái của các quốc gia phong kiến Đông Nam Á. Nét nổi bật của văn hóa phong kiến Đông Nam á. 10.Những giai đoạn phát triển lịch sử lớn của hai vương quốc Lào và Campuchia. Quan hệ đối ngoại của Vương Quốc Lào, CPC.
2 câu trả lời
Đời sống vật chất:- Luôn cải tiến công cụ để nâng cao năng suất- Sống trong hang động, mái đá, biết làm lều để ở.- Biết trồng trọt, chăn nuôi. Tổ chức xã hội:- Sống thành từng nhóm, cùng huyết thống. Định cư lâu dài ở một nơi. tôn người mẹ lớn tuổi lên đứng đầu. Đó là chế độ thị tộc mẫu hệ. Đời sống tinh thần:- Biết làm đồ trang sức, vẽ trang trí, có tục chôn cất người chết.
câu 2: Thành tựu văn hóa cổ đại phương Đông– Thành tựu về Lịch pháp và Thiên văn học
Ở các quốc gia cổ đại phương Đông, những tri thức Thiên văn học và Lịch pháp học có thể nói là ra đời sớm nhất, vì nó gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp của người dân. Ở phương Đông, nghề trồng trọt ở nơi đây rất phát triển, và để cày cấy đúng thời vụ và mùa vụ, đòi hỏi người dân phải quan sát thời gian một cách chính xác nhất. Dần dần, họ biết đến sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Đó là những tri thức đầu tiên về thiên văn, và dựa vào những kiến thức này, người phương Đông sáng tạo ra lịch. Theo đó, lịch của họ là nông lịch, một năm có 365 ngày được chia đều ra làm 12 tháng.
Đây cũng chính là cơ sở để họ tính ra được chu kỳ của thời gian và mùa. Cụ thể, thời gian được họ chia theo ngày, tuần, tháng, năm. Một năm được chia ra làm hai mùa: Mùa mưa là mùa nước lên, mua khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi. Khi đó, con người họ cũng biết đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời, và tính được môi ngày sẽ có 24 giờ.
Thiên văn học và lịch học chính là dựa vào đấy mà ra đời.
– Thành tựu về chữ viết
Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết, vào khoảng thiên niên kỷ IV TCN. Lúc đầu, chữ viết chỉ là các hình vẽ của những gì mà họ muốn nói, và sau đó họ đã sáng tạo thêm những ký hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Đây được gọi là chữ tượng hình. Sau này, người ta cách điệu hóa chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý chí của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Loại chữ này không được tách riêng với chữ tượng hình mà luôn được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.
Về nguyên liệu dùng để viết chữ: Tùy vào điều kiện và sự phát minh của trí não loài người mà dụng cụ viết của họ cũng khác nhau. Ví dụ như người Ai Cập sẽ là giấy làm bằng vỏ cây papirut. Người Lưỡng Hà thì dùng cây sậy vót nhọn để làm bút và lấy những tấm sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô để làm nơi để viết. Người Trung Quốc xa xưa thì sẽ khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết viết chữ lên thẻ tre hoặc trên lụa.
– Thành tựu về Toán học
Toán học phát triển ở phương Đông là do nhu cầu của người dân ở nơi đây. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, nên nhân dân ở đây quanh năm với ruộng đồng, từ đó họ cũng có nhu cầu cho việc tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi bị ngập nước, hay tính toán trong xây dựng, … vì vậy, Toán học xuất hiện rất sớm ở phương Đông.
Chính những kiến thức nền tảng này đã đặt nền móng to lớn cho sự phát triển về toán học cho những thế hệ sau này.
– Thành tựu về kiến trúc
Trong nền văn minh cổ đại phương Đông, nghệ thuật kiến trúc hạ tầng nơi đây phát triển rất phong phú và đa dạng. Nhiều di tích kiến trúc cách đây hàng nghìn năm vẫn còn lưu giữ, điển hỉnh như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Babilon ở Lưỡng Hà, …
Những công trình kiến trúc cổ xưa là minh chứng chứng cho sự đóng góp lớn lao về sức lao động và tài năng sáng tạo phi thường của con người.
Thành tựu văn hóa cổ đại phương Tây– Thành tựu về lịch và chữ viết
Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nhờ vào việc tiếp xúc với các công cụ bằng sắt và sự tiếp xúc với biển đã mở ra cho các quốc gia phương Tây một chân trời mới, nâng họ lên một trình độ cao hơn về sản xuất và buôn bán trên biển, cùng nhờ vào đó, họ có nhiều nhận thức và tiếp thu khoa học sớm hơn các quốc gia cổ đại phương Đông.
Nhờ vào việc đi biển, họ đã có cái nhìn khái quát hơn về Trái Đất và hệ Mặt Trời. Ví dụ như, họ nhận ra rằng Trái Đất không tròn như cái đĩa và nó là một quả bóng hình cầu, nếu tính một năm có 360 ngày là điều không chính xác, tuy nhiên, họ vẫn cho rằng Mặt Trời quay xung quanh Trái Đất. Mãi đến về sau, người Rooma cổ đại đã tính được 1 năm có 265 ngày và ¼ nên họ định 1 tháng lần lượt có 30 hoặc 31 ngày, riêng tháng hai có 28 ngày. Mặc dù, cách tính này so với thực tế vẫn còn bị chậm một chút, nhưng cách tính này đã gần sát với những hiểu biết ngày nay.
Người Ai Cập và Lưỡng Hà cổ đại cùng với một số ngư dân trên biển đã có chữ viết cổ. Điều kiện đi biển quanh năm bắt buộc họ phải có chữ viest để trao đổi thông tin. Tuy nhiên, do vẫn còn sơ khai nên chữ viết chủ yếu là các hình vẽ giản đơn, và đòi hỏi phải có khả năng ghép chữ rất linh hoạt thành từ để thể hiện ý nghĩ của con người.
Hệ thống chữ cái của người Hy Lạp và người Roma cổ đại cũng từ đó mà ra đời. Hệ thống chữ viết này có tên gọi là chữ cái Roma, ban đầu có 20 chữ cái, sau có thêm 6 chữ cái nữa thành một bảng chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay: A, B, C, …
Cùng với đó là sự ra đời của các chữ số, mà ngày nay goi là số La Mã.
Đây chính là thành tựu lớn lao đối với nhân loại.
– Thành tựu về khoa học
Nói đến thành tựu về khoa học, xuất hiện từ thời cổ đại phương Đông, tuy nhiên, khi đến thời cổ đại phương Tây thì những hiểu biết đó mới thực sự được coi là khoa học.
Với người Hy Lạp, Toán học đã vượt lên trên việc ghi chép và giải đáp các bài học riêng biệt. Những nhà toán học nổi tiếng thời kỳ này đến nay vẫn còn vang dội và được lưu lại. Các thành tựu đó vẫn còn giá trị cho đến ngày nay. Ví dụ Định lý Hình học của Ta – lét, hay Pi-ta-go về tính chất của các số nguyên và định lý các cạnh của tam giác vuông, đường thẳng song song của Oclit, …
– Thành tựu về Văn học
Hy Lạp là quốc gia cổ đại ở phương Tây đầu tiên phát triển mạnh về lĩnh vực này. Sau những anh hùng ca nổi tiếng của Hôme là Iliat và Odixe, đã xuất hiện những nhà văn cùng với các tác phẩm mới và vẫn còn lưu giá trị cho đến ngày nay.
Người Roma tự nhận là học trò và là người thừa kế văn học – nghệ thuật của người Hy Lạp. Dựa trên điều kiện kinh tế xã hội phát triển cao, cùng với việc thừa kế những truyền thống văn học của người Hy Lạp, mà nên văn học ở đây cũng dần phát triển mạnh, ở thời hưng thịnh của Roma cũng xuất hiện những nhà văn hóa và nhà thơ nổi tiếng như Lucrexo, Viocgin, …
– Thành tựu về Nghệ thuật
Người Hy Lạp cổ đại đã có rất nhiều thành tựu nổi bật mà vẫn còn lưu giữ đến ngày nay: tượng nữ thần Atona đội mũ chiến binh, Người lực sĩ ném đĩa, thần Vệ nữ Milo, …
Người Roma có nhiều công trình kiến trúc như đền đài, cầu máng dẫn nước, trường đấu, … oai nghiêm và đồ sộ, thiết thực nhưng không tinh tế như các thành tựu của người Hy Lạp.
Câu1 : Đời sống vật chất:- Luôn cải tiến công cụ để nâng cao năng suất- Sống trong hang động, mái đá, biết làm lều để ở.- Biết trồng trọt, chăn nuôi. Tổ chức xã hội:- Sống thành từng nhóm, cùng huyết thống. Định cư lâu dài ở một nơi. tôn người mẹ lớn tuổi lên đứng đầu. Đó là chế độ thị tộc mẫu hệ. Đời sống tinh thần:- Biết làm đồ trang sức, vẽ trang trí, có tục chôn cất người chết.