1. Dựa bản đồ nước Nam Việ thời Triệu Đà, hãy cho biết nước Âu Lạc được đổi tên thành địa danh nào? 2. Dưới thời Hán, lãnh thổ Việt Nam được chia thành các quận nào? 3. Thời Đông Hán, lãnh thổ của Việt Nam gồm các quận nào? 4.Thời Đông Ngô, lãnh thổ Việt Nam gồm những vùng đất nào? 5.Hãy đánh dấu vào phần lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Tùy và nhà Đường 6.Dựa vào lược đồ cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, hãy cho biết, dưới thời Đường, Việt Nam được chia thành các vùng đất nào?

2 câu trả lời

. Dựa bản đồ nước Nam Việ thời Triệu Đà, hãy cho biết nước Âu Lạc được đổi tên thành địa danh nào?

>/  Giao Chỉ và Cửu Chân.

2. Dưới thời Hán, lãnh thổ Việt Nam được chia thành các quận nào?

>  9 quận 

3. Thời Đông Hán, lãnh thổ của Việt Nam gồm các quận nào?

 gồm có 6 quận: Giao Chỉ, Vĩnh Bình, Tân Hưng (Xương), Cửu Chân, Cửu Đức và Nhật Nam.

5.Hãy đánh dấu vào phần lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Tùy nhà Đường

6.Dựa vào lược đồ cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan, hãy cho biết, dưới thời Đường, Việt Nam được chia thành các vùng đất nào?

Thời kỳ Trung cổ
• Đường Cao Tổ đoạt ngôi từ nhà Tùy
18 tháng 6 năm 618
• Bị gián đoạn bởi Võ Tắc Thiên
16 tháng 10 năm 690
• Họ Lý phục ngai vị
3 tháng 3 năm 705
• Loạn An Sử
16 tháng 12 năm 755
• Hậu Lương Thái Tổ soán vị, chấm dứt nhà Đường

1:

Bắc thuộc lần thứ nhất và cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Triệu Đà sáp nhập đất Âu Việt vào nước Nam Việt, chia vùng đất Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.

2:

Ba quận thuộc về lãnh thổ Việt Nam là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam.

3:

Nhà Đông Hán duy trì bộ Giao Chỉ gồm có 9 quận: Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông ngày nay), Thương Ngô, Uất Lâm (Quảng Tây), Chu Nhai, Đạm Nhĩ (đảo Hải Nam), Giao Chỉ, Cửu Chân (miền Bắc Việt Nam) và Nhật Nam

4:

Bốn quận Hợp Phố, Thương Ngô, Uất Lâm và Nam Hải cũng thuộc nước Nam Việt thời nhà Triệu và trực thuộc bộ Giao Chỉ thời Hán nhưng lãnh thổ đều nằm bên ngoài Việt Nam hiện nay.

6:

Nhà Đường coi An Nam là một trọng trấn và tăng cường bóc lột rất nặng dưới nhiều hình thức. Hằng năm các châu quận ở đây phải cống nạp nhiều sản vật quý (ngà voi, đồi mồi, lông trả, da cá, trầm hương, vàng, bạc...) và sản phẩm thủ công nghiệp (lụa, tơ, sa, the, đồ mây, bạch lạp...).

Ngoài việc cống nạp, người Việt Nam phải nộp nhiều loại thuế mới. Có nhiều loại thuế mà chính sử nhà Đường phải thừa nhận rằng các quan lại ở An Nam đã đánh thuế rất nặng[2]. Riêng thuế muối ở Lĩnh Nam hàng năm bằng 40 vạn quan tiền. Ngoài thuế muối và gạo, còn phải nộp thuế đay, gai, bông và nhiều thuế "ngoại suất" (thuế đánh 2 lần). Nhà Đường dựa vào tài sản chia làm ba loại thuế:

Thượng hộ nộp 1 thạch 2 đấu
Thứ hộ nộp 8 đấu
Hạ hộ nộp 6 đấu
Các hộ vùng thiểu số nộp 1/2 số quy định trên. Song có những quan lại nhà Đường vẫn bắt người thiểu số nộp toàn bộ số thuế như các dân cư ở đồng bằng. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự phản kháng của người Việt, mà vụ chống thuế điển hình là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến chống lại Lưu Diên Hựu năm 687.

Sử nhà Đường ghi nhận không ít các quan lại đô hộ vơ vét của cải của người Việt để làm giàu và chạy chức, thăng tiến. Cao Chính Bình "phú liễm nặng", Lý Trác "tham lam ăn hối lộ, phú thuế bạo ngược", bắt người dân miền núi phải đổi một con trâu bò chỉ để lấy được 1 đấu muối; Lý Tượng Cổ "tham túng, bất kể luật pháp"...[2]

Để củng cố sự cai trị, nhà Đường tăng cường xây cất thành trì và quân phòng thủ ở Tống Bình, châu Hoan, châu Ái. Trong phủ thành đô hộ Tống Bình, thường xuyên có 4.200 quân đồn trú. Ở vùng biên giới phía tây bắc như miền Lâm Tây, Lân, Đăng hằng năm có 6.000 quân trấn giữ gọi là quân "phòng đông" (phòng giữ vào mùa khô) để chống sự xâm lấn của nước Nam Chiếu. Thời gian đầu, nhà Đường chỉ dùng quân trưng tập từ phương bắc sang làm quân "phòng đông", nhưng từ thời Đường Trung Tông[3] buộc phải dùng cả quân người Việt xen lẫn.