Thề nguyền
I. Tác giả
II. Tác phẩm
1. Tóm tắt:
Sau lần gặp gỡ đầu tiên trong buổi chiều thanh minh thơ mộng, Kim Trọng đi tìm nhà trọ học gần cạnh nhà Thúy Kiều cốt để tìm gặp lại nàng. Hai người đã gặp gỡ, trao kỉ vật làm tin. Một hôm, khi cả gia đình sang chơi bên ngoại, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, nàng quay lại gặp chàng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng vằng vặc...
2. Tìm hiểu chung
a. Vị trí đoạn trích: Từ câu 431- 452.
Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng tâm sự. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả gia đình sang chơi bên ngoại chưa về, Kiều liền quay trở lại gặp Kim Trọng.
b. Bố cục: 2 phần:
- 14 câu đầu: Kiều quay trở lại nhà Kim Trọng.
- 8 câu cuối: Cuộc thề nguyền Kim - Kiều.
3. Tìm hiểu chi tiết
a. Kiều quay trở lại nhà Kim Trọng
- Từ ngữ: xăm xăm, băng => hành động dứt khoát, táo bạo, mạnh mẽ.
=> Sự chủ động trong tình yêu.
- Nguyên nhân:
+ Sợ cha mẹ về sẽ trách mắng hành động táo bạo của nàng => phải vội vã tranh đua với thời gian.
+ Tiếng gọi của tình yêu mãnh liệt thôi thúc.
+ Kiều bị ám ảnh bởi định mệnh dành cho người tài sắc nên đã chủ động tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh. Nỗi lo lắng trước tương lai mong manh, mơ hồ, không vững chắc khiến nàng phải bám víu lấy hiện tại.
b. Cuộc thề nguyền Kim - Kiều
* Không gian thơ mộng:
- Cảnh Kim Trọng đang thiu thiu, mơ màng dưới ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hưu hắt.
- Tiếng bước chân khe khẽ, êm nhẹ lại gần của Thúy Kiều.
- Những hình ảnh ước lệ hoa mỹ, sang trọng: giấc hòe, bóng trăng xế, hoa lê, giấc mộng đêm xuân
+ Đài sen nối sáp - thắp thêm nến.
+ Lò đào thêm hương - đốt thêm trầm hương.
=> Tính chất thơ mộng, huyền ảo, thần tiên.
* Tâm trạng con người:
- Kim Trọng: bâng khuâng, nửa tỉnh nửa mơ, khó tin là sự thực.
- Thúy Kiều: ngỡ ngàng, cứ ngỡ trong mơ.
* Giây phút thề nguyền:
- Ánh trăng: nhân chứng cho cuộc thề nguyền của đôi trai gái.
- Lời thề: trăm năm bền vững.
=> Mối tình Kim - Kiều đẹp mà cô đơn, gắn bó mà không hứa hẹn. Cuộc thề nguyền của hai người không có con người và xã hội chứng giám, chỉ có lò hươmg và vầng trăng sáng xa xôi, lạnh lẽo.
c. Giá trị nội dung
- Miêu tả một tình yêu cao đẹp và thiêng liêng.
- Thể hiện quan niệm về tình yêu mới mẻ của Nguyễn Du.
d. Giá trị nghệ thuật
- Vận dụng từ ngữ, cách nói quen thuộc của người bình dân một cách nghệ thuật.
- Sử dụng nhiều từ Hán Việt, điển tích, điển cố.
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
I. Mở bài :
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
Ví dụ tham khảo mở bài phân tích đoạn trích Thề nguyền
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc. “Truyện Kiều” là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của ông và của nền văn học dân tộc từ trước đến nay. “Truyện Kiều” không chỉ gây ảnh hưởng trong phạm vi văn chương mà còn để lại những dấu ấn sâu sắc đến đời sống tinh thần của người dân. Đoạn trích “Thề nguyền” là đoạn trích để lại nhiều dấu ấn với những câu thơ giàu sức gợi và chứa đựng cả tấm lòng lẫn tài năng của nhà thơ.
II. Thân bài
* Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng
"Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tinh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hoè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
- Tâm trạng và tình cảm của Thúy Kiều
+ “Xăm xăm”, “băng”: hành động dứt khoát, táo bạo, mạnh mẽ. Trong quan niệm của xã hội cũ, những hủ tục đã trói buộc tự do tình cảm, dựng lên bức rào chắn cho đôi lứa. Nhưng Kiều với trái tim khao khát yêu chân thành, đã bỏ sau lưng mọi lễ giáo phong kiến để tìm đến với hạnh phúc của chim liền cánh cây liền cành.
+ “Nhặt thưa gương giọi đầu cành”, “vườn thưa”, “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần”: buổi thề nguyền diễn ra trong khung cảnh trang trọng, thơ mộng. Đặc biệt hình ảnh “vườn thưa” tạo ra một bối cảnh rất nên thơ.
“Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?””
+ “Khoảng vắng đêm trường”: là khoảng thời gian tất cả mọi vật đều chìm trong giấc ngủ.
+ “Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”: tình yêu thiết tha, chân thành, tự do. Nhưng hoa cũng là tượng trưng cho cái dễ phai tàn, dự báo tương lai không lành của Kiều.
+ “Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”: băn khoăn, lo lắng về sự chia xa tan vỡ.
- Tâm trạng và tình cảm của Kim Trọng
+ Dùng điển tích “tiếng sen”, “giấc xòe” để chỉ giấc mộng gặp người đẹp, là giấc mơ Kim Trọng được gặp nàng Kiều.
+ Đến khi biết mọi việc không còn là giấc mơ nữa thì Kim Trọng đã nhanh chóng rước Kiều vào nhà.
=> Đoạn thơ là màn gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng, là cuộc hội ngộ của cặp uyên ương thuở mới yêu. Đó là thứ tình yêu thuần khiết, chân thành và xuất phát từ trái tim.
* Kim Trọng và Thúy Kiều thề nguyền
"Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ cân vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương"
- Không gian, thời gian: trong nhà Kim Trọng, vào một đêm trăng sáng.
- Các hình ảnh tượng trưng: “đài sen”, “lò đào” gợi nên một không gian thơ mộng.
- “Tiên thề”, “dao vàng chia đôi”: là những tín vật minh chứng cho quyết tâm chung đôi của Kiều và Kim Trọng, thể hiện ước mong được sánh vai.
- Lời thề nguyền của Kiều và Kim Trọng được “vừng trăng” làm nhân chứng.
- “Hai miệng một lời song song”: thể hiện sự đồng lòng son sắt của cả hai, tình yêu đã dẫn đường cho hai trái tim gặp nhau.
- “Tạc một chữ đồng đến xương”: động từ “tạc” đã khiến câu thơ có sức nặng hơn. Mối giao duyên được cả Kiều và Kim Trọng khắc ghi sâu và đến tận xương, lời thề nguyền đã trở thành một niềm sống cho hai tâm hồn.
* Đánh giá chung:
- Giá trị nội dung: ngợi ca, cổ vũ cho tình yêu trong sáng của Thúy Kiều và Kim Trọng; thể hiện ước mơ được tự do yêu đương vượt lên trên lễ giáo phong kiến.
- Giá trị nghệ thuật: sử dụng các hình ảnh ước lệ, điển cố điển tích; vận dụng các hình ảnh ẩn dụ giàu sức chứa; bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo; nghệ thuật tả cảnh đặc sắc.
III. Kết bài
- Nêu cảm nhận về đoạn trích.
Ví dụ: Cảnh dịu dàng, tình yêu thuần khiết, đoạn trích đã dựng lên khung cảnh nên thơ của buổi thề nguyền giữa Kiều và Kim Trọng. Qua đó, đoạn trích đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng sâu sắc về một tình yêu chân thành, thuần khiết giữa nền xã hội phong kiến hà khắc.
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Thề nguyền – Bài văn mẫu số 1
Vào dịp đi chơi tiết Thanh minh cùng hai em, Thuý Kiểu dã gặp Kim Trọng, bạn của Vương Quan. Chỉ trong thoáng chốc: Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Tình trong như đã, mặt ngoài còn e. Tình yêu kì lạ giữa họ bắt đầu nảy nở từ đây. Ngay trong đêm hôm ấy, hình bóng phong nhã, hào hoa của Kim Trọng đã in đậm trong tâm hồn Thuý Kiều, khiến trái tim nhạy cảm của nàng thổn thức. Nàng băn khoăn tự hỏi:
Người đâu gặp gỡ làm chi,
Trăm năm biết có duyên gì hay không ?
Còn Kim Trọng thì cũng :
Bâng khuâng nhở cảnh nhớ người,
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân ơi,
ao ước được gặp lại Thuý Kiều lần nữa. Như mối lương duyên tiền định, Kiểu làm vương chiếc kim thoa cài đầu trên cành đào trong vườn Thuý, Kim Trọng nhặt được đem trả và nhân thể bày tỏ nỗi niềm thầm yêu trộm nhớ. Họ trao đổi kỉ vật cho nhau: Giở kim thoa với khản hồng trao tay và hứa hạn sẽ chung thuỷ cùng nhau.Rồi một hôm, nhân lúc cha mạ và các em về quê ngoại dự tiệc sinh nhật, Thuý Kiểu đã chủ động sang gặp người yêu. Đoạn trích kể về cảnh hai người gặp gỡ tại nhà trọ của Kim Trọng và cùng nhau thề nguyền gắn bó trăm năm dưới Vầng trăng vằng vặc giữa trời.Thông qua nghệ thuật kể chuyện và miêu tả có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện thực và bút pháp cổ điển, Nguyễn Du đã ca ngợi tình yêu tự do trong sáng và say đắm của đôi trai tài, gái sắc, vượt lên trên những rào cản, ràng buộc khắt khe của giáo lí phong kiến đương thời.
Đoạn trích này có liên quan với các đoạn khác trong Truyện Kiểu, ví dụ như đoạn Trao duyên. Những hình ảnh đốt lò hương ấy, sợi tơ phím này má kiểu nhắc đến trong lởi kể với Thuý Vân chính là những hình ảnh trong đêm thể nguyền này. Thuý Kiều bị ám ảnh bởi tính chất mong manh, bất định của tình yêu sau khi thắp hương ở nấm mồ cô quạnh của Đạm Tiên. Trong mơ, Kiều gặp hồn ma người kĩ nữ bất hạnh ấy và từ đó nàng luôn bị ám ảnh bởi bốn chữ tài hoa bạc mệnhThuý Kiều là nhân vật chính trong cảnh Thề nguyền nên tác giả đã dành nhiều câu thơ tâm huyết để viết về nàng.
Mải mê tinh tự với người yêu trọn một ngày, đến xẩm tói Kiều mới sực tỉnh, bèn e thẹn nói rằng: vắng nhà chẳng tiện ngồi dai rồi vội vàng chia tay. Cha mẹ và hai em vẫn chưa về, nàng lại vội vàng sang với chàng Kim lần nữa:Của ngoài vội rủ rèm the,Xăm xâm băng lối vườn khuya một mình. Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ có khả năng gợi tả, gợi cảm mỗi lúc một cao dể miêu tả khát vọng tình yếu của Thuý Kiều. Từ láy xăm xâm tả bước chân Kiểu đi rất nhanh, rất quả quyết; động từ băng thể hiện sự tảo bạo, liều lĩnh của nàng khi dám tìm lối tắt qua vườn khuya để sang nhà Kim Trọng. Nhịp thơ ngắn, gấp gáp : Xăm xảm / băng lối / vườn khuya / một mình đặc tả thái độ chủ động và tâm trạng sốt ruột của Kiều mong được nhanh chóng gặp lại người yêu. Đồng thời, dường như phần nào Kiều muốn tranh đua với thời gian và phủ nhận định mệnh đang ám ảnh, phần khác cũng vì tình yêu mãnh liệt thôi thúc.
Khung cảnh đêm trăng trong vườn Thuý có vẻ đẹp huyền ảo và thơ mộng, như xui khiến những người đang yêu tìm đến với nhau:Nhặt thưa gương giọi đầu cành,Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.Sinh vừa tựa án thiu thiu,Dở chiều như tinh dở chiều như mê.Tiếng sen sẽ động giấc hoè,Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.Trong cái đêm thần tiên ấy, không gian được Nguyễn Du miêu tả bằng hình ảnh ánh trăng chiếu qua vòm lá in những mảng sáng tối mờ tò không đều trên mặt đất: Nhặt thưa gương giọi đầu cành. Ánh đèn từ phòng học của Kim Trọng lọt ra dịu dịu, hắt hiu. Tiếng gót sen của Thuý Kiều nhè nhẹ đến gần khiến cho: Sinh vừa tựa án thiu thiu, Dở chiều như tỉnh dở chiều như mô, bỗng sực tỉnh để rồi lại rơi ngay vào trạng thái vừa ngạc nhiên, vừa lâng lâng sung sướng, vì không tin dó là sự thực. Kim Trọng không ngờ bóng dáng nàng Kiều đang thấp thoáng trong giấc mơ bỗng hiện ra trước mắt:
Bâng khuâng đĩnh Giáp non thần,
Còn ngờ giấc mộng đồm xuân mơ màng.
Là một văn nhân nho nhã, lại đang say đắm Thuý Kiều nên Kim Trọng dã tiếp đón Kiều rất trân trọng và lắng nghe tâm sự của nàng. Thuý Kiều chủ động sang và cũng chính nàng chủ động thắp lên ngọn lửa tình yêu:
Nàng rằng:“Khoảng vắng đêm trường;
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rỏ mật đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Lời nói của Thuý Kiều hàm chứa nhiều nét nghĩa. Thứ nhất, nhà nàng ở liền với nhà Kim Trọng trọ học, vậy mà nàng lại nói là Khoảng vắng đêm trường, đó là biểu hiện của khổng gian và thời gian tâm lí. Khi yêu nhau, người ta cảm thấy gắn nhau bao nhiêu vẫn là chưa đủ, cứ muốn gần thêm nữa. Bởi thế, việc Thuý Kiều sang nhà Kim Trọng trong đêm cũng có thể coi là nàng đă tự vượt qua sự ngăn cách của thời gian và không gian tâm lí đề vươn tới làm chủ tình yêu, tự sắp xếp số phận của mình.Thứ hai, Thuý Kiều nói: Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa là cớ ý nói vì tinh yêu mãnh liệt mà mình phải chủ động sang nhà Kim Trọng.
Chữ hoa thông thường để chỉ người con gái, nhưng ở đây, Kiểu dùng chữ hoa như một hàm ý tốt đẹp chỉ tình yêu nồng nàn, tha thiết của minh dành cho Kim Trọng. Tiếp đó, Kiều nói: Bây giờ rõ mặt đôi ta, Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ? Trong lời vừa là thanh minh vừa là bày tỏ của Kiều đã ẩn chứa dự cảm chẳng lành về sự dang dở của tình yêu đối lứa. Nàng như dang cổ chạy đua với thời gian, muốn vượt qua định mệnh khắc nghiệt của đời minh. Nguyễn Du đã nhập thân vào nhân vật Thuý Kiều để hiểu và thông cảm với thái độ, hành động trái với lỗ thường của nàng.Nghe Thuý Kiều tâm sự, Kim Trọng hiểu lòng nàng nôn: Vội vàng làm lỗ rước vào, Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương. Rồi hai người: Liền thi cùng thảo mật chương, cùng thề nguyền kết tóc se tơ, trăm năm vàng đá.
Tác giả đã đặc tả không khí khẩn trương, gấp gáp của buổi lẻ thề nguyền bất ngờ, không dược chuẩn bị trước. Nó diễn ra rất nhanh chóng nhưng cung rất trang nghiêm, đầy đủ trong một không khí thiêng liêng:Vừng trăng vàng vặc giữa trời,Dinh ninh hai miệng một lời song song.Tóc tơ cân vặn tấc lóng,Trăm nám tạc một chữ đổng đốn xương.ồ đoạn trích này, tác giả dùng hai lẩn từ vội: Cửa ngoài vội rủ rèm theo, vội vàng làm lỗ rước vào một lần từ xăm xăm; một lần từ băng. Nhịp điệu khẩn trương của buổi lễ thề nguyền dã được tác giả tô đậm bằng những tử đặc biệt ấy. Lời thể nguyền gắn bó Trăm năm tạc một chữ đổng đến xương của Thuý Kiều và Kim Trọng đã được Vừng trăng vàng vặc giữa trời chứng giám. Đây cũng là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm về tình yêu của Thuỷ Mu.
Những chi tiết trong đoạn trích này góp phần làm cho người đọc hiểu sâu nội dung của đoạn Trao duyên, vì đêm thề nguyền đã trở thành kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc của mối tình đầu nên Kiều không bao giờ quên được. Tình yêu mãnh liệt, lời thề xuất phát từ hai trái tim yêu nồng nàn sẽ mãi mãi in đậm dấu ấn vào tâm tưởng của đôi trai tài gái sắc. Cũng vì thế mà trải qua bao gió dập sóng vùi của cuộc đời, họ vẫn thương nhớ nhau khôn nguôi.Đoạn trích kể về đêm thề nguyền, đỉnh cao của tình yêu Thuý Kiều- Kim Trọng mà trong đó Thuý Kiều đóng vai trò chủ động. Sự chủ động này đã từng gây ra phản ứng phô phán, chỉ trích dữ dội của một số nhà Nho thử cựu vốn mang nặng thành kiến Nho giáo.
Có hai lý do hiện thực và tâm linh khiến Thuỷ Kiều phải giành quyển chủ động. Lí do hiện thực tất nhiôn là tình yêu mãnh liệt. Thuý Kiểu và Kim Trợng đến với nhau bằng một tình yêu rất tự nhiên, nhất kiến chung tình. Thuý Kiều đến với Kim Trọng cũng giống như cánh buổm gặp gió, cánh buồm phải căng gió, con người phải có tinh yêu, do đó nàng không có lỗi. Nhà thơ đã xây thành công một tình yêu trong sáng và lãng mạn tuyệt vời. Mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng là mối tình đẹp đẽ giữa trai tài gái sẳc. Bên cạnh đó là lí do tâm linh: Thuý Kiều, số mệnh bất công dành cho những người con gái tài sắc nên tìm đến với tình yêu để chống lại định mệnh: Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Đến đây thì chúng ta đã hiểu vì sao Thuý Kiểu nói với Kim Trọng như để thanh minh vể sự chủ động của mình:
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rổi nữa chẳng là chiêm bao?
Đoạn trích Thề nguyền còn thể hiện rõ quan niệm của Nguyễn Du đối với tình yêu và hôn nhân. Nhà thơ ủng hộ tình yêu và hôn nhân hoàn toàn tự do, tự nguyện, vượt ra ngoài khuôn khổ, định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến đương thời. Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quán hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động; nhưng ở đây, bất chấp sự hà khắc của luân lí, của dư luận, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Thuý Kiều. Nhà thơ thể hiện ước mơ về tình yêu tự do qua mối tinh Kim - Kiều; điều đó chứng tỏ rằng ông đã cố cái nhìn tiến bộ vượt trước thời đại.
Mối tình Thuý Kiều - Kim Trọng trong sáng, đẹp đẽ như vậy mà rồi phải tan vỡ nhanh chóng trước phong ba bão táp của chế độ phong kiến bạo tàn. Nhưng xã hội bất nhân chỉ đày đoạ, vùi dập được tấm thân của Thuý Kiều chứ làm sao cướp được tinh yêu tha thiết của nàng đánh cho Kim Trọng? Có điều, tấm lòng kiên trinh, chung thuỷ của nàng không thể đương đầu nổi với bao nhiêu thế lực hung hãn trong xã hội vạn ác. Thời gian dẫu có trôi qua nhưng không thể dập lắt tinh yêu trong tim Thuý Kiều. Mỗi khi nghĩ đến Kim Trọng, nàng luôn có tâm trạng băn khoăn, day dứt:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
Dẫu lìa ngó Ỷ còn vương tơ lòng.
Đoạn trích này góp phần giúp người đọc hiểu đúng và hiểu sâu hơn nội dung đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Thuý Kiều và nàng sẽ nhớ mãi những chi tiết của đêm thề nguyền thiêng liêng này trong suốt cuộc đời.
Phân tích tác phẩm Thề nguyền – Bài văn mẫu số 2
Nhân lần du xuân dự lễ tảo mộ, vui hội đạp thanh cùng hai em là Thúy Vân và Vương Quan, Thúy Kiều gặp Kim Trọng bên mộ Đạm Tiên. Dù mới gặp nhau lần đầu nhưng cả hai đều cảm nhận về nhau:
“Người quốc sắc kẻ thiên tài,
Tình trong như đã mặt ngoài còn e”
Về nhà, Thúy Kiều cứ suy nghĩ vẩn vơ, nằm mộng thấy họa thơ cùng Đạm Tiên và được nàng báo tin chẳng lành. Còn Kim Trọng thì cứ ra ngẩn vào ngơ. Chàng tìm cách thuê nhà trọ gần nhà Thúy Kiều, và ngày đêm mong được nhìn thấy nàng. Một ngày đẹp trời, Kim Trọng nhặt được cành hoa của Kiều vô ý đánh rơi. Hai người gặp gỡ và hứa hẹn. Một hôm, khi cả gia đình sang chơi bên ngoài, Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Chiều tà, nàng trở về nhà, được tin cả nhà vẫn chưa về, Kiều quay lại gặp Kim Trọng. Hai người đã làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc. Đoạn trích sau đây (từ câu 431 đến câu 452) miêu tả về cảnh ấy, một cảnh tình yêu lãng mạn, đẹp nhất mà nhà thơ đã dụng tài để giới thiệu tính cách của nhân vật Thúy Kiều. Bốn câu thơ đầu nhà thơ miêu tả cảnh Thúy Kiều qua nhà Kim Trọng lần thứ hai. Chỉ mới đây thôi:
Nhà lan thanh vắng một mình,
Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
Kiều đã tìm gặp Kim Trọng. Hai người đã cùng xướng họa thơ văn, cùng đối đáp, tâm sự. Kiều thì lo phận minh “bạc mệnh”. Kim Trọng thì lạc quan, tin vào lẽ “nhân định thắng thiên”, và hứa “thì đem vàng đá mà liều với thân”. Được nghe những lời ấy từ Kim Trọng, Kiều cảm thấy “lòng xuân phơi phới”. Có lẽ đang trong tâm trạng ấy, khi về nhà và không thấy ai thì Kiều đã vội vàng. Cửa ngoài vội rủ rèm the. Tất nhiên cảnh đêm trăng ắt hẳn là đẹp, nhưng chủ ý của Kiều đâu phải là ngắm trăng. Cứ tưởng tượng hình ảnh “xăm xăm băng lối” là có thể cảm nhận tâm trạng náo nức, không muốn bỏ phí thời gian thực hiện mong muốn của mình. Trong lúc đó thì:
Sinh vừa tựa án thiu thiu
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Mỏi mệt vì bao ngày mong mỏi, đợi chờ hay lâng lâng sung sướng vì không hẹn mà gặp? Được nhìn tận mắt, nghe tận tai con người và giọng nói của Kiều khiến tâm hồn Kim Trọng như lên chín tầng mây? Có lẽ có cả hai tâm trạng ấy trong hai câu thơ trên. Hình ảnh một Nho sinh vừa tiễn người mà chàng thầm yêu trộm nhớ ẩn trong cụm từ “tựa án thiu thiu” có vẻ mặt vừa “như tỉnh” vừa “như mê” quả thật khó có họa sĩ nào vẽ được. Đang trong tâm trạng đó thì Kim Trọng lại nghe “tiếng sen”, rồi lại thấy “hoa lê”, theo ngôn ngữ ước lệ thì là tiếng bước chân nhẹ nhàng của Kiều đang bước tới. Lúc ấy, nhà thơ miêu tả Kim Trọng mang tâm trạng như vua nước Sở nằm mơ thấy thần nữ núi Vu Giáp trong điển tích của văn học cổ Trung Quốc. Từ những câu thơ miêu tả như đã phân tích, nhà thơ chuyển qua hình thức đối thoại khi Kiều và Kim đối diện nhau. Kiều mở lời:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Một lời trần tình về quan niệm sống của Kiều: Chủ động trong tình yêu và trân trọng nó trong hiện thực. Quan niệm của Kiều về tình yêu khác hẳn quan niệm truyền thống đối với phụ nữ thời xưa: cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Đạo lí Nho gia đã dạy họ, trong đó có Kiều là tại gia tòng phụ cơ mà! Sở dĩ Kiều phá vỡ sự áp đặt của luân lí Nho giáo dành cho nữ giới có lẽ do Kiều đã cảm nhận được tình yêu chân thực của Kim Trọng, và đặt niềm tin vào con người hào hoa phong nhã này mới chủ động để “rõ mặt đôi ta”. Được lời như cởi tấm lòng, Kim Trọng rước Kiều vào thư phòng, nhanh chóng thêm đèn cho sáng, đốt thêm trầm để tăng hương thơm. Bấy giờ mới lấy tờ giấy hoa viết lời thề, lấy dao quý cắt tóc chia làm hai phần đặt lên án thư. Tưởng tượng ra hình ảnh ấy từ mấy câu thơ, người đọc đã thấy khung cảnh trang nghiêm mà ấm cúng. Cả hai cùng quỳ xuống, cùng hướng nhìn trời cao...
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Cách tạo niềm tin về tình yêu của đôi trai tài gái sắc đã tạo nên cảnh thật nên thơ và lãng mạn nhưng không kém phần thiêng liêng. Cả hai đều để tâm trí của minh (đinh ninh) vào lời thề. Họ như đôi song ca mà bài hát là lời thề chung thủy và người chứng giám là trời đất, “Vừng trăng”. Bốn câu thơ với những từ láy vằng vặc, đinh ninh, từ lặp song song tạo thành đôi như đôi trai tài gái sắc Kiều - Kim đang nguyện thề “tạc một chữ đồng đến xương”. Có lẽ vì nặng với lời thề ấy mà sau này, khi quyết định bán mình để chuộc cha và em trai, nhất là trong đêm nhờ cậy Thúy Vân “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà gắn bó với Kim Trọng thì Kiều luôn nghĩ đến cái chết nghĩ đến “thịt nát xương mòn..., người thác oan, rồi chết ngất sau khi thốt lên lời đau thương tạ lỗi cùng Kim Trọng. Sự nhất quán trong quan niệm về tình yêu của Thúy Kiều là như thế, là không quên lời thề, nhận phần lỗi về mình và tạo hạnh phúc cho người còn sống.
Qua đoạn trích, Nguyễn Du đã dựng nên khung cảnh lãng mạn và đề cao tính cách của Thúy Kiều trong đêm thề nguyền kết tóc xe tơ cùng Kim Trọng, bằng văn miêu tả và đối thoại. Cảnh thì dịu dàng, đẹp như một bức tranh. Tính cách của Kiều, nhân vật chính thì chủ động dứt khoát và chân thật đã phá vỡ tính thụ động của thanh nữ thời xưa về tình yêu đôi lứa do lể giáo Nho gia áp đặt. Dù vậy, tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng vẫn trong sáng, đậm đà. Điều ấy đã làm tăng thêm tính hấp dẫn và giá trị nhân văn của Truyện Kiều.
Phân tích tác phẩm Thề nguyền – Bài văn mẫu số 3
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của nền văn học dân tộc, có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ trong đời sống của nhân dân Việt Nam suốt mấy trăm năm nay. Giá trị của truyện Kiều đến từ các giá trị nhân văn, tính nhân bản như lòng thương cảm và xót xa cho số phận con người dưới chế độ phong kiến, ca ngợi vẻ đẹp tài hoa và tâm hồn của người phụ nữ, bên cạnh đó nó còn mang giá trị hiện thực khi phản ánh, tố cáo chế độ phong kiến tàn ác, chèn ép đày đọa con người đến bước đường cùng. Nhân vật chính của tác phẩm là Thúy Kiều một cô gái trẻ tuổi, tài sắc vẹn toàn, thế nhưng lại phải chịu bất hạnh với kiếp hồng nhan bạc mệnh.
Trong phần thứ nhất - Gặp gỡ của tác phẩm, thì trích đoạn Thề nguyền là một trong những trích đoạn hay nhất kể về mối tình đẹp của Thúy Kiều với Kim Trọng. Thề nguyền bắt đầu từ câu 431 đến câu 452 của tác phẩm, sau khi gặp gỡ tại tiết Thanh minh, Kim Trọng và Thúy Kiều đã có thêm vài lần gặp gỡ, cặp trai tài gái sắc, đang tuổi thanh xuân phơi phới đã nhanh chóng phải lòng nhau và tình yêu ngày càng trở nên sâu đậm. Chính vì lẽ đó nên Thúy Kiều nhân lúc cả nhà sang ngoại, đã lén đi tìm gặp Kim Trọng, rồi sau khi đã trở về nhà lúc chiều tà mà chưa thấy người nhà quay trở về nàng lại tiếp tục quay lại lần nữa, rồi tự định ước chung thân với Kim Trọng, để bày tỏ tình yêu sâu sắc chân thành của cả hai. Trích đoạn Thề nguyền đã kể lại tất thảy việc đính ước của cả hai dưới ánh trăng vằng vặc.
Ở trích đoạn Thề nguyền ta dễ dàng nhận thấy quan điểm tiến bộ trước thời đại cả của Nguyễn Du trong tình yêu đôi lứa, bộc lộ sự ủng hộ của tác giả trong việc nam nữ theo đuổi tình yêu một cách tự do mãnh liệt, thoát khỏi cái e lệ, ngại ngần không dám tỏ bày mà ông cha ta thuở xưa vẫn thường cho là phép tắc, lễ nghĩa. Điều này thể hiện rất rõ trong đoạn Thúy Kiều vượt tường băng qua nhà Kim Trọng ngay trong đêm tối. Bởi trong nền giáo dục truyền thống, phận nữ nhi buộc phải an phận thủ thường, chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, cũng không có chuyện trai gái lén lút, gặp gỡ riêng nhau để tỏ bày tình yêu, nếu có thì người trai bị cho là vô phép, thiếu lễ nghĩa, còn người con gái phải chịu điều tiếng nặng nề hơn là lăng loàn, thất tiết,...
Thế nhưng với hai nhân vật Kiều và Kim Trọng, Nguyễn Du lại hoàn toàn tạo cho họ một không gian gặp mặt riêng, để họ được thoải mái bộc lộ tình yêu sâu sắc dành cho nhau. Đặc biệt với nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vẽ ra cảnh nàng đêm hôm chạy theo tiếng gọi của tình yêu, rồi tự tay quyết định chung thân đại sự của mình. Điều đó đã từng một thời dấy lên làn sóng tranh cãi về việc rốt cuộc Kiều có phải là người phụ nữ lễ tiết thấu đáo hay cũng chỉ là loại phụ nữ trắc nết. Tuy nhiên đến nay, thì người ta lại có cái nhìn thông cảm và trân trọng hơn với nàng, cũng như cái tính táo bạo, mạnh mẽ trong tình yêu của Thúy Kiều.
“Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Nhặt thưa gương dọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao ?”
Trong 14 câu thơ đầu, ta thấy hiện lên hình ảnh người con gái vội vã đi tìm tình lang, khi vừa trở về nhà thì hay tin cả nhà vẫn chưa về, ngay lập tức trong lòng Kiều đã nảy ra ý định sang tìm Kim Trọng lần nữa. Chứng tỏ rằng tình yêu của nàng đang ở độ mặn nồng và sâu sắc nhất, nỗi nhớ đã bộc lộ ra bằng hành động để chứng minh. Những từ “vội”, “xăm xăm”, “băng lối”, “một mình” đã thể hiện sự mạnh mẽ, quyết đoán của Kiều trong tình yêu, không màng lễ tiết hay những quan niệm phong kiến ngăn cản tình yêu, vứt bỏ tất cả sau lưng để tìm đến với chân ái của cuộc đời. Bên cạnh đó tình yêu của Kiều còn được vẽ nên dưới một khung cảnh thiên nhiên rất thơ mộng và trữ tình, gợi ra sự lãng mạn, tươi trẻ của thứ tình yêu đầu đời tuyệt đẹp.
Đó là cảnh “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”, khi ánh trăng trên cao tỏa xuống những thứ ánh sáng dịu dàng, rồi xuyên qua từng tầng lá để lọt xuống những tia sáng lưa thưa chiếu lên người giai nhân đang rảo bước trong vườn. Cảnh ánh đèn mờ mờ của Kim Trọng xuyên qua cửa hắt ra ngoài vườn, không chỉ thể hiện ánh nhìn trông mong, thương nhớ luôn hướng về nơi tình lang ở của nàng Kiều, mà nó còn thể hiện tinh thần hiếu học, sự miệt mài chăm chỉ của Kim Trọng trong việc đèn sách, càng chứng minh tình yêu của Kiều đã đặt đúng người. Thúy Kiều nhanh chóng băng vườn tìm đến nhà Kim Trọng, ở đây thấy chàng đã hiu hiu giấc ngủ bên đèn sách, chập chờn trong giấc mộng.
Nguyễn Du dùng hình ảnh có tính ước lệ như “Tiếng sen đã động giấc hòe”, để thể hiện phong thái dù vội vã nhưng vẫn uyển chuyển, thanh khiết nhẹ nhàng của Thúy Kiều thông qua “tiếng sen”. Lại diễn tả cảnh say giấc của Kim Trọng bằng “giấc hòe” trích từ điển cố Thuần Vu Phần ngủ dưới gốc hòe mơ thấy vinh hoa phú quý. Điều đó thể hiện lý tưởng và khát vọng của Kim Trọng vào việc tạo lập công danh, sự nghiệp, thế nhưng trước giấc mộng không có thật và thân ảnh Thúy Kiều đã đến bên thì Kim đã nhanh chóng thức dậy. Hình ảnh “Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần” càng làm tăng thêm sự thi vị và lãng mạn cho công cuộc gặp gỡ của Kiều và Kim Trọng.
Khung cảnh đôi kim đồng ngọc nữ, dưới ánh trăng sáng tỏ, với nội tâm là tình yêu mãnh liệt dành cho nhau trở nên thật tuyệt diệu. Chính vì thế khi Kim Trọng tỉnh giấc, nhìn thấy Kiều dưới ánh trăng thanh lại cứ ngỡ bản thân mình đang mơ, thực tế là vì quá đỗi bất ngờ, cùng với việc nhớ mong người yêu mà tưởng mình mộng phải đâu ngờ người đã tới tận bên án thư. Tại đây Kiều đã mạnh mẽ tỏ bày nỗi lòng mình, việc mà xưa nay chắc chẳng mấy nữ nhi thường tình dám chủ động, Kiều đối diện với Kim Trọng bộc lộ sự nhớ mong, trống vắng khi xa nhau, lại sợ “đêm trường” khó tránh khỏi nhớ thương, thế nên ví “hoa” chính là tình yêu, nàng đã “vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa”.
Thế nhưng bên cạnh nỗi nhớ mong tình quân, thì hành động bộc phát của Kiều có lẽ còn xuất phát từ giấc mộng về Đạm Tiên, phải chăng Thúy Kiều đang lo lắng rằng tình yêu của mình sẽ giống như đóa hoa kia, đẹp nhưng sớm nở tối tàn đầy xót xa. Hoặc là lại giống như một giấc “chiêm bao” cuối cùng chẳng còn lại gì, điều đó khiến lòng Kiều bất an vô cùng. Chính vì thế nên mới có cảnh tìm gặp rồi thề nguyền kết tóc, để nàng cảm thấy an tâm hơn về tình yêu đầu đời đẹp như mộng của mình.
“Vội mừng làm lễ rước vào,
Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương
Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món dao vàng chia đôi
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Không gian thề nguyền của đôi trẻ ấy là trong nhà Kim Trọng, cũng là nơi hai người thường gặp mặt tâm sự, bối cảnh thời gian là một đêm trăng sáng tạo nên không gian thơ mộng trữ tình. Không chỉ vậy ánh trăng xưa nay luôn là biểu trưng cho sự sum vầy, đoàn viên, sự hạnh phúc mỹ mãn, bên cạnh đó còn là biểu thị cho tình yêu trong sáng, thuần khiết và chân thành của Thúy Kiều và Kim Trọng. Vầng trăng ở đây đã trở thành minh chứng thiêng liêng cho tình yêu tuyệt đẹp của đôi trai tài gái sắc. Trong việc thề nguyền, đính ước, cả Thúy Kiều và Kim Trọng đều vô cùng thành tâm và cẩn thận, tỉ mỉ, nào là nến đỏ thắp trên “đài sen”, rồi có cả hương khói tản mát trong “lò đào” làm cho không khí trở nên thập phần lãng mạn, tinh tế và thiêng liêng vô cùng.
Cả hai đã cùng nhau viết “tiên thề”, cùng nhau cắt tóc mây bằng “dao vàng”, thể hiện thái độ trân trọng và nâng niu vô cùng ước nguyện cùng nhau kết tóc, bạc đầu trăm năm, quyết tâm không đổi dời. “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là thể hiện sự đồng lòng sắt son, là tình yêu chân thành sâu sắc đến từ cả hai phía, từ hai trái tim nay đã hòa chung một nhịp đập, chất chứa đầy ắp thư tình yêu đời đời thuần khiết, sâu nặng. Lời ước hẹn “Trăm năm tạc một chữ đồng đến tâm” chính là lời thề nguyền, hẹn ước suốt kiếp chỉ chung tình với đối phương, mà chữ “đồng” trong đồng tâm, đồng lòng đã ghi tạc vào sâu trong trái tim mãi mãi không bao giờ phai mờ. Tỏ rõ tình cảm và sự thủy chung son sắt của hai con người yêu nhau, vượt qua mọi sự ngăn cản của lễ giáo phong kiến, một lòng theo đuổi thứ tình yêu đích thực, tươi đẹp nhất cuộc đời.
Qua đoạn trích Thề nguyền, ta đã thấy được quan điểm tiến bộ của Nguyễn Du về sự tự do theo đuôi tình yêu của trai gái, thấy được cá tính mạnh mẽ của nàng Kiều, bộc lộ thông qua việc lén tìm Kim Trọng rồi tự định chung thân. Cuối cùng đoạn trích cũng bộc lộ cả vẻ đẹp thuần khiết, thiêng liêng và sâu nặng giữa hai trái tim son trẻ, và ước mơ muôn đời của con người được tự do chạy theo tình yêu, khao khát được hạnh phúc con người.
Phân tích tác phẩm Thề nguyền – Bài văn mẫu số 4
Kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một “đại kiệt tác” của nền văn học trung đại Việt Nam, Truyện Kiều xoay quanh cuộc đời và số phận của nhân vật Thúy Kiều, một người con gái tài sắc vẹn toàn “sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Tuy nhiên, cuộc đời của người con gái tài hoa ấy lại phải trải qua muôn vàn khó khăn, bất hạnh, sóng gió của cuộc đời. Cuộc đời Thúy Kiều toàn những khổ đau, bất trắc. Nhưng, nếu ta theo dõi từ đầu cuộc đời của Kiều, ta có thể thấy Kiều đã từng được hạnh phúc. Đó là khi gặp gỡ Kim Trọng, yêu và được yêu, tình yêu đầu đời của nàng Kiều với chàng Kim cũng đẹp như bao chuyện tình khác. Trong trích đoạn “Thề nguyền”, nhà thơ Nguyễn Du đã thể hiện rõ nét tình yêu trong sáng mà da diết ấy của hai người.
Sau khi có duyên gặp mặt tại lễ tảo mộ, Kim Trọng đã khắc sâu hình bóng của nàng Kiều trong tim của mình. Vì vậy, Kim Trọng đã thuê một nhà trọ gần nhà của Vương ông, mục đích là có thể tiếp tục gặp gỡ Thúy Kiều. Cuộc gặp mặt vô tình tại lễ tảo mộ không chỉ có Kim Trọng mà Thúy Kiều cũng có sự rung động với chàng Kim thư sinh, anh tuấn. Nhân khi cả nhà về ngoại, Thúy Kiều và Kim Trọng đã lén lút gặp nhau. Khi trở về, biết bố mẹ vẫn chưa trở về, nàng Kiều đã có một quyết định rất táo bạo, đó là vượt tường để sang gặp Kim Trọng lần nữa:
Cửa ngoài vội rủ rèm che
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình
Khi biết bố mẹ và hai em chưa có ai về nhà, Thúy Kiều đã “tranh thủ”quãng thời gian quý giá ấy để đi gặp tình lang. Hành động của nàng Kiều khá chu đáo, nàng buông rèm che để không ai phát hiện ra hành động của mình “vội rủ rèm che”. Hành động sau càng táo bạo hơn nữa, nàng “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Ta có thể thấy, trong quan niệm phong kiến xưa, người con gái không được phép tự do yêu đương mà phải theo quy định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Ở đây Thúy Kiều không những phá vỡ quy định ấy mà còn rất chủ động đến với tình yêu một mình. Hành động “xăm xăm” thể hiện những bước chân rất dứt khoát, nhanh nhẹn. Như vậy, Thúy Kiều đã phá vỡ mọi rào cản phong kiến đối với tình yêu nam nữ, thể hiện được khát khao tình yêu, khát khao hạnh phúc chính đáng của mình.
“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa
Bây giờ đỏ mặt đôi ta
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”
Trong đêm tối, nàng Kiều một mình vượt quãng đường ngăn cách để đến với chàng Kim. Có thể thấy “khoảng vắng đêm trường”,thời khắc đêm khuya là giây phút những đôi lứa nhớ nhung về nhau nhất. Với Thúy Kiều cũng vậy, nỗi nhớ chàng Kim đã thôi thúc nàng hành động. “Vì hoa” ở đây ta có thể hiểu là Thúy Kiều đang ám chỉ chàng Kim, một con người tài hoa, nho nhã. “Trổ đường tìm hoa” là hành trình Thúy Kiều “băng lối vườn khuya” để đến gặp tình lang của mình, nàng tranh thủ từng phút giây có thể để ở bên nhau,vì “biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao”. Có lẽ, cuộc gặp gỡ mộ Đạm Tiên đã luôn ám ảnh Thúy Kiều, nàng luôn mơ hồ dự cảm về một tương lai đầy biến cố sẽ đến với con người đầy tài hoa như nàng. Vì vậy, nàng không muốn lãng phí một phút giây nào để sống với cảm xúc, với tình yêu của mình.
Chàng Kim đang thiu thiu ngủ, nửa tỉnh nửa mê nghe tiếng động “tiếng sen khẽ động giấc hòe”. Nhà thơ Nguyễn Du sử dụng hình ảnh “tiếng sen” để miêu tả bước chân của Thúy Kiều, gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước chân hết sức nhẹ nhàng, uyển chuyển đến mức chỉ “khẽ động giấc hòe”. Khung cảnh Thúy Kiều và Kim trọng gặp nhau cũng được Nguyễn Du mô tả hết sức thơ mộng, lãng mạn với hình ảnh “trăng xế”, “hoa lê”. Trong khung cảnh thi vị ấy, lòng người cũng đầy bâng khuâng. Để nói về sự xúc động bâng khuâng của chàng Kim khi nhìn thấy Thúy Kiều, nhà thơ đã sử dụng điển cố của Trung Quốc, đó là điển tích “đỉnh giáp non thần”, kể về việc vua nước Sở ngủ nằm mơ thấy nữ thần núi Vu Giáp khiến chàng Kim như tỉnh như mê, còn tưởng “giấc mộng đêm xuân mơ màng”.
“Vội mừng làm lễ rước vào
Đài sen sáp song đào thêm hương”
Trước sự xuất hiện đầy bất ngờ của Thúy Kiều, chàng Kim “vội mừng làm lễ rước vào. Niềm hân hoan, vui mừng không giấu mà thể hiện ra ngay trong nét mặt, hành động đầy trân trọng, chàng Kim cho thêm sáp vào đèn để thắp sáng, làm cho cuộc gặp mặt thêm ý nghĩa, thiêng liêng hơn.
“Tiên thề, cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi”
Dưới ánh trăng sáng, trong không gian đầy thi vị, Kim – Kiều đã bắt đều nghi thức thề nguyền “Tiên thề, cùng thảo một chương”. “Tóc mây” và “dao vàng” là những vật đính ước cho buổi thề nguyền. Ta có thể thấy, mục đích của cuộc gặp gỡ bất ngờ này không phải đơn thuần là cho thỏa nỗi nhớ nhung của đôi lứa mà còn nhằm mục đích thiêng liêng hơn, đó là lời thề nguyền, minh chứng tình yêu của chàng và nàng.
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai mặt một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”
Trong buổi thề nguyền, “vầng trăng” chính là nhân chứng cho cuộc tình hai người. “Vằng vặc giữa trời” như soi tỏ tấm lòng chân thành, trong sáng mà Thúy Kiều và Kim Trọng giành cho nhau. Không khí lúc thề nguyền cũng hết sức nghiêm túc, chân tình “đinh ninh hai mặt một lời song song” thể hiện sự đồng lòng của cả hai bên, vật đính ước như vật trói buộc tấm chân tình, tình cảm “trăm năm” mãi không đổi thay. “Chữ đồng” ở đây có thể hiểu là sự đồng lòng, đồng tâm mãi không phai nhạt của đôi lứa.
Như vậy, trích đoạn “Thề nguyền” đã vẽ ra một khung cảnh đầy thi vị, mơ mộng. Trong không gian tuyệt mĩ ấy của thiên nhiên, nàng Kiều và chàng Kim đã thể khẳng định tình cảm giành cho đối phương bằng cách thổ lộ, thiêng liêng, chân thành hơn nữa hai người đã thề nguyền hẹn ước, khẳng định tình yêu mãi dành cho nhau. Có thể thấy,cảnh thề nguyền đêm trăng là khoảnh khắc hạnh phúc nhất cuộc đời của Thúy Kiểu, bởi lúc ấy nàng yêu và được yêu, sống trong tình yêu cháy bỏng của cuộc đời mình.
Phân tích tác phẩm Thề nguyền – Bài văn mẫu số 5
Truyện Kiều là tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Không những là một kiệt tác bất hủ, truyện Kiều còn ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần và đời sống của con người Việt nam nhiều thời đại. Đoạn trích Thề nguyền trích từ câu 431 đến câu 452 trong Truyện Kiều. Đoạn trích kể về việc Thúy Kiều sang nhà Kim Trọng và làm lễ thề nguyền gắn bó trước vầng trăng sáng vằng vặc:
Cửa ngoài vội rủ rèm the,
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình...
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Thúy Kiều táo bạo băng lối vườn khuya tìm đến với Kim Trọng: Cửa ngoài vội rủ rèm the/Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Tác giả dùng hai lần chữ “vội”, một lần chữ “xăm xăm”, một lần chữ “băng” để diễn tả tâm trạng, tình cảm của Kiều. Mặt khác thể hiện sự khẩn trương, vội vã của nàng trong hành động táo bạo, đột xuất, bất ngờ. Kiều như tranh đua với thời gian và định mệnh đang ám ảnh mà cũng vì tình yêu với Kim Trọng mà Kiều vội vã đến vơi chàng Kim.
Thông thường, quan niệm Nho giáo cho rằng trong quan hệ nam nữ, bao giờ người con trai cũng phải đóng vai trò chủ động. Người con gái không bao giờ là người chủ động trong tình yêu. Thế nhưng, lần đầu tiên trong lịch sử, Nguyễn Du đã để cho Kiều hành động như thế. Đây là một nét mới trong cách nhìn tình yêu của Nguyễn Du. Nhưng ỏ đây, Nguyễn Du đã nhấn mạnh sự chủ động của Kiều – người con gái. Nhà thơ có cái nhìn vượt trước thời đại, hướng đến sự bình đẳng trong tình yêu lứa đôi và trong cuộc sống xã hội của mỗi con người.
Nhặt thưa gương giọi đầu cành,
Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu.
Không gian đêm thần tiên, hư ảo được tả bằng các hình ảnh ánh trăng nhặt thưa, ngọn đèn hiu hắt, tiếng bước chân nhẹ nhàng tạo ấn tượng cho Kim Trọng như đang sống trong mơ. Không gian như cần thêm ánh sáng, cần thêm hương thơm và sự ấm áp. Đó là không gian đẹp, nhưng có cảm giác hư ảo, không có thực, con người rất cô đơn giữa trời đất bao la:
Sinh vừa tựa án thiu thiu,
Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
Tiếng sen sẽ động giấc hè,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
Bâng khuâng đỉnh Giáp non thần
Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
Kiều đến và tỏ bày về hành động của mình:
Nàng rằng: “Khoảng vắng đêm trường,
Vì hoa nên phải trổ đường tìm hoa.
Bây giờ rõ mặt đôi ta,
Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?”
Biết là trái với luân thường đạo lí, nhưng ngọn lửa tình yêu cháy bỏng khiến nàng mạnh bước vượt qua. Sợ Kim Trọng không vừa ý nên tỏ lòng cho rõ nguồn cơn. Cuộc thề nguyền tuy vội vàng nhưng cũng đủ cả các hình thức nghi lễ. Hai mái đầu xanh cùng ngước lên trời cao, có vầng trăng chứng giám lời thề, tình yêu tự nguỵen và chung thuỷ của họ:
Đài sen nối sáp lò đào thêm hương.
Tiên thề cùng thảo một chương,
Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
Vừng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Hình ảnh: “Đinh ninh ….song song” và lời thề: “Trăm năm…..xương” thật cảm động và thiêng liêng, lãng mạn và đầy chất lí tưởng. Đoạn trích cho thấy tình yêu của con người là rất cao đẹp và thiêng liêng. Lời thề của họ được vầng trăng chứng giám. Đoạn Trao duyên là sự tiếp tục một cách lôgic quan niệm và cách nhìn tình yêu của Thuý Kiều. Ngược lại đoạn trích này cũng góp phần hiểu đúng đoạn Trao duyên, vì đây là một kỉ niệm đẹp đối với Kiều và Kiều sẽ nhớ lại những chi tiết trong đêm thề nguyền thiêng liêng này. Bởi vậy khi phải phụ lời thề để báo hiếu Kiều luôn nhớ chàng Kim với buổi thề nguyền với tâm trạng đau xót, tiếc thương. Hành động trao duyên tả nghĩa chàng Kim làm dịu đi phần nào nỗi đau của Kiều.
Thề nguyền là đoạn thơ chứng tỏ quan niệm mới mẻ táo bạo của Nguyễn Du về tình yêu. Mặt khác chứng minh tình cảm say đắm, mãnh liệt, chủ dộng và rất đỗi trong sáng, thiêng liêng của Kiều – Kim. Đoạn thơ đã trở thành bản tình ca bất diệt về tình yêu đầy lãng man, lí tưởng táo bạo. Đây là cái nhìn mới mẻ, giàu tính nhân văn của Nguyễn Du về tình yêu.