Ra-ma buộc tội
I. Đôi nét về tác phẩm Ra-ma buộc tội
1. Hoàn cảnh ra đời
a) Sử thi Ra-ma-ya-na
- Hình thành: Khoảng thế kỷ IV-III TCN được viết bằng văn vần, tiếng Phạn được bổ sung, trau chuốt bởi nhiều thế hệ đạo sĩ và đạt đến hình thức hoàn thiện cuối cùng nhờ đạo sĩ Van-mi-ki (Van-mi-ki sống ở thế kỉ III TCN, được nhân dân Ấn Độ xem là nhà thơ đầu tiên của dân tộc mình. Thuộc đẳng cấp Bàlamôn, bị cha mẹ ruồng bỏ phải trốn vào rừng sâu làm thảo khấu. Sau được Na -ra-đa dạy bảo mà trở thành đạo sĩ)
- Ra-ma-ya-na là một trong hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ, có ảnh hưởng lâu bền, sâu rộng trong văn học, văn hóa không những của dân tộc Ấn mà còn của nhiều nước Đông Nam Á.
- Sử thi Ra-ma-ya-na gồm 24.000 câu thơ đôi, chia thành 24 khúc ca lớn kể về những kì tích của Ra-ma, hoàng tử trưởng của nhà vua Đa-xa-ra-tha.
b) Đoạn trích
Đoạn trích thuộc chương 79, khúc ca thứ 6 của sử thi Ra-ma-ya-na
2. Bố cục (hai phần)
- Phần 1 (từ đầu đến “ra-va-na đâu có chịu đựng được lâu”): Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta, diễn biến tâm trạng của Ra-ma
- Phần 2 (còn lại): Diễn biến tâm trạng của Xi-ta
3. Tóm tắt
Vua Đa-xa-ra-tha có bốn người con trai do ba bà vợ sinh ra. Ra-ma là con cả, hơn hẳn các em về tài đức. Vua cha có ý định nhường ngôi cho chàng nhưng vì lời hứa với bà vợ thứ Ka-kê-i xinh đẹp nên đã đày Ra-ma vào rừng và trao ngôi lại cho Bha-ra-ta, con của Ka-kê-i. Ra-ma cùng vợ là Xi-ta và em trai Lắc-ma-na vào rừng sống ẩn dật. Quỷ vương Ra-va-na lập mưu cướp Xi-ta đem về làm vợ. Mặc quỷ vương dụ dỗ và ép buộc, Xi-ta vẫn kịch liệt chống cự. Được tướng khỉ Ha-nu-man giúp đỡ, Ra-ma đã cứu được Xi-ta. Nhưng sau đó, Ra-ma nghi ngờ tiết hạnh của Xi-ta và không muốn nhận lại nàng làm vợ. Để chứng tỏ lòng chung thuỷ của mình, Xi-ta đã nhảy vào lửa. Thần lửa biết Xi-ta trong sạch nên đã cứu nàng. Ra-ma và Xi-ta trở về kinh đô.
4. Giá trị nội dung
Đoạn trích cho chúng ta thấy được quan niệm của người ấn Độ cổ đại về người anh hùng, về đường quân vương mẫu mực và về người phụ nữ lí tưởng trong xã hội.
5. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
- Xây dựng nhân vật lí tưởng với tâm lí, tính cách, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ
- Xây dựng tình huống đầy mâu thuẫn, kịch tính
- Giàu yếu tố sử thi
II. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về sử thi Ra-ma-ya-na: Sử thi Ra-ma-ya-na là một trong hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ. Sử thi Ra-ma-ya-na gồm 24.000 câu thơ đôi, chia thành 24 khúc ca lớn kể về những kì tích của Ra-ma, hoàng tử trưởng của nhà vua Đa-xa-ra-tha.
- Giới thiệu về vị trí đoạn trích và khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Đoạn trích thuộc chương 79, khúc ca thứ 6 của sử thi Ra-ma-ya-na. Đoạn trích tập trung miêu tả diễn biến tâm trạng của Ra-ma và Xi-ta sau khi Ra-ma giải cứu Xi-ta.
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh tái hợp của Ra-ma và Xi-ta
- Nơi gặp gỡ: không gian cộng đồng, trước sự chứng kiến của rất nhiều người.
- Ra-ma trong tư cách kép với những ràng buộc kép: Ra-ma vừa là một vị vua, một anh hùng trọng danh dự đồng thời là một người chồng hết mực yêu thương và xót xa cho vợ của mình.
- Vị trí của Xi-ta: vừa là một người vợ xót xa, đau khổ, xấu hổ vừa là một con người đau đớn vì mất đi danh dự của mình.
⇒ Hoàn cảnh tái hợp rất đặc biệt, đặt các nhân vật vào tình huống đầy thử thách để thể hiện vai trò của mình trước mọi người.
2. Lời buộc tội của Ra-ma
- Trước khi Xi-ta bước lên dàn hỏa thiêu:
+ Rama đã gọi Xita là"phu nhân cao quý", đây ko phải là cách gọi hạ thấp nhưng lại bộc lộ xa lạ, lạnh lùng, quan cách và đầy trịnh trọng, dường như không một chút thân mật
+ Thái độ ghen tuông, nghi ngờ Xi-ta (ngôn từ lạnh lùng, giọng điệu đay nghiến, ghen tuông, xua đuổi Xi-ta, buông những lời xúc phạm tầm thường..)
- Khi Xi-ta lên dàn hỏa thiêu: Không nói lời nào, mắt dán xuống đất và đau khổ vô biên khi Xita ta bước lên giàn hỏa thiêu, nhưng kiên quyết hi sinh tình yêu để bảo vệ danh dự của một anh hùng, một đức vua gương mẫu
⇒ Đứng trên tư cách kép (con người xã hội và con người cá nhân), đứng giữa tình yêu và danh dự, Ra-ma đã lựa chọn danh dự để làm tròn nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm của một đức vua. Qua đó, ca ngợi phẩm chất anh hùng lí tưởng của Ra-ma.
3. Lời đáp và hành động của Xi-ta
- Trước những lời buộc tội của Ra-ma:
+ Nàng ngạc nhiên đến sững sờ: “mở tròn đôi mắt đẫm lệ”
+ Nỗi đau tăng dần: “đau đớn đến nghẹt thở như một dây leo bị vòi voi quật nát”, “nàng muốn chôn vùi hình hài, thân xác của mình…”, “mỗi lời nói của Ra-ma như xuyên vào tái tim nàng một mũi tên”, “nước mắt nàng đổ xuống như suối”, “giọng nói nghẹn ngào, nức nở”…
- Lời đối đáp của Xi-ta:
+ Nàng đổ lỗi cho số phận, bênh vực mình
+ Xi-ta khẳng định: “Nhưng cái gì nằm trong sự kiểm soát của thiếp tức trái tim thiếp đây là thuộc về chàng”
→ Nàng khẳng định trái tim và tình yêu của nàng vẫn một mực thủy chung, dành trọn cho Ra-ma
+ Nàng trách móc Ra-ma:
• “Chàng chẳng cần mạo hiểm để có thể nguy hại đến thân mình và những người bạn hữu của chàng đã không phải chịu những phiền muộn, đau khổ”
• “Như một người thấp hèn bị cơn dày vò, người đang nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường”
• “Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cướp thiếp.”
→ Nàng không chỉ trách móc mà còn phê phán Ra-ma. Qua đó cho thấy, Xi-ta không phải là người dễ dàng chấp nhận những phũ phàng, ngang trái. Xi-ta là người phụ nữ mạnh mẽ, cương quyết và chung thủy trong tình yêu
- Hành động nhảy vào chảo lửa của Xi-ta:
+ Xi-ta nói với Lắc-ma-na chuẩn bị một dàn hỏa thiêu
+ Xi-ta đi quanh Ra-ma, cúi lậy chư thần, đấng Bra-ma, cầu xin sự chứng giám của thần Lửa A-nhi
+ Xi-ta lượn quanh dàn thiêu rồi dũng cảm bước vào chảo lửa.
+ Thái độ của mọi người: ai nấy, già cũng như trẻ , đau lòng đứt ruột.
+ Xi-ta không chết vì nàng nhận được sự che chở của thần lửa và đó cũng chính là sự chứng minh cho đức hạnh và tấm lòng thủy chung của Xi-ta.
⇒ Xi-ta là hình tượng người phụ nữ Ấn Độ cổ đại hoàn thiện, đáng được ngưỡng mộ - trong sáng, thủy chung, chân thực.
4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ: trang trọng, phong phú, biểu cảm.
- Xây dựng nhân vật lí tưởng với tâm lí, tính cách, hành động, cử chỉ, ngôn ngữ
- Xây dựng tình huống đầy mâu thuẫn, kịch tính
- Giàu yếu tố sử thi
III. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Qua hai nhân vật ra-ma và Xi-ta giúp chúng ta hiểu được quan niệm của người Ấn Độ cổ đại về mẫu người anh hùng, đức vua mẫu mực và người phụ nữ lí tưởng và nghệ thuật khắc họa nhân vật độc đáo của sử thi Ra-ma-ya-na.
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Ra-ma buộc tội – Bài văn mẫu số 1
Ra-ma-ya-na là thiên sử thi Ấn Độ nổi tiếng thế giới, ra đời vào khoảng thế kỉ thứ 3 trước Công Nguyên. Tác phẩm liên tục được nhiều thế hệ tu sĩ – thi nhân bổ sung về nội dung, trau chuốt về nghệ thuật và đạo sĩ Van-mi-ki là người hoàn thiện cuối cùng.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng gặp lại nhau, Xi-ta vui mừng khôn xiết. Nhưng hoàng tử Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích, các tác giả đã thể hiện quan điểm về Vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.
Có thể nổi Ra-ma là nhân vật hội tụ đẩy đủ những nét tính cách của một vị vua anh hùng như ao ước của dân chúng thời đại đó. Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống yà tình huống ở đoạn trích này là khá đặc biệt. Theo quy luật tâm lí thông thường thì lẽ ra gặp lại vợ sau một thời gian dài xa cách Ra-ma phải hết sức vui mừng và niệm vui to lớn ấy sẽ chi phối mọi suy nghĩ cùng hành động của chàng. Thế nhưng Ra-ma lại không như vậy. Chàng nói với Xi ta: Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đả được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Rắc-sa-xa tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra trả thù là kẻ tầm thường…
Rõ ràng là khẩu khí của người anh hùng tài ba và coi trọng danh dự hơn cả mạng sống của bản thân. Ra-ma đã chiến đấu và chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực, chàng không giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:… Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường.
Nay ta phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Người đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương ? Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?
Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Vì thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy ta không thể trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc chàng phải cư xử như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.
Suy nghĩ của hoàng tử Ra-ma tiêu biểu cho quan điểm đạo đức của giai cấp quý tộc Ấn Độ thời đó. Tuy nhiên, nó cũng có những điều gần gũi với suy nghĩ của phần lớn đàn ông trong xã hội phong kiến với rất nhiều ràng buộc khắt khe. Đối với Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiển thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận. Những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp cửa nàng.
Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ rà như suối. Lấy tà áo lau nước mắt, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở, nàng nói: Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng ! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…
Trong đau đớn và tủi nhục vì bị chổng nghi ngờ và từ bỏ, nàng Xi-ta xinh đẹp vẫn khẳng khái lạ lùng. Giống như hoàng tử Ra-ma, nàng cũng coi danh dự là điều cao quý nhất. Nàng không ngại ngẩn so sánh chàng với những kẻ thấp hèn vì nặng cho rằng chàng không nên nói những lời ngờ vực không căn cứ như vậy với nàng – một con người có dòng dõi cao quý khống kém gì chàng, bởi nàng chính là con gái của thần Đất Mẹ Pri-thi-vi được tôn thờ. Nàng (rách móc Ra-ma: Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp. Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích.
Trong cơn tuyệt vọng trước thái độ khó lay chuyển của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình: Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu.
Sự kính phục, ngưỡng mộ và tiếc thương của mọi người chứng kiến cảnh đó được miêu tả rất xúc động: Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hỏa. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh. Thấy nàng như vậy, như một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa, các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa lẫn loài Va-na-ra cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó.
Như vậy là đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đểu rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng, đúng như lời cầu xin của Xi-ta, thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.
Đoạn trích Ra-ma buộc tội giống như một màn kịch ngắn mà kịch tính được đẩy lên cao độ. Hai nhân vặt chính là Ra-ma và Xi-ta đều bị đặt trước những thử thách ngặt nghèo, đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc cá tính và bản chất của mình. Hoàng tử Ra-ma đem hết sức mạnh và tài năng để chiến đấu với quỷ vương Ra-va-na để giành lại người vợ yêu quý, nhưng chàng cũng dám hi sinh tình yêu vì danh dự, bổn phận của một người anh hùng, một đức vua mẫu mực. Nàng Xi-ta xinh đẹp, trong trắng cũng là hình ảnh của một người phụ nữ lí tưởng. Nàng đã can đảm bước vào lửa để chứng minh tình yêu tha thiết cùng đức hạnh thủy chung của mình đối với hoàng tử Ra-ma cao quý.
Phân tích tác phẩm Ra-ma buộc tội – Bài văn mẫu số 2
Là một trong những cái nôi văn minh đầu tiên của loài người, nền văn học của Ấn Độ cũng sớm được hình thành và phát triển mạnh mẽ, nhắc đến văn học Ấn Độ chắc hẳn sẽ có nhiều người nhớ đến hai bộ sử thi nổi tiếng Ramayana và Mahabharara. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng những cuốn sử thi này vẫn làm say đắm hàng triệu trái tim của độc giả. Đoạn trích Ra- ma buộc tội là một phần trong cuốn Ramayana.
Bàn về vai trò của sử thi Ramayana đối với đời sống tinh thần của người Ấn Độ đã có lời nhận xét rằng: " Chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana còn làm say lòng người và cứu họ ra khỏi tội lỗi". Đoạn trích Rama buộc tội là một trích đoạn tiêu biểu của cuốn sử thi này,đoạn trích kể về sự kiện Ra-ma sau khi chiến thắng quỷ vương Ra-va-na đã cứu được người vợ của mình là Xita, hai người đã có giây phút đoàn tụ với những sự kiện phức tạp đã diễn ra. Sau những ngày bị chia cắt khi Xi-ta bị quỷ vương bắt đi, hai vợ chồng Ra- ma và Xi-ta đã được đoàn tụ, nhưng đó không phải phút giây hàn nguyên vợ chồng cảm động mà lại là thời điểm giải quyết những mâu thuẫn, xung đột.
Gặp lại chồng, Xi-ta vô cùng vui mừng, thế nhưng đáp lại sự nhớ thương, chờ mong của nàng thì Ra-ma đối xử với nàng vô cùng lạnh lùng bởi trong Ra-ma luôn tồn tại mối nghi ngờ vì Xi-ta đã bị quỷ vương bắt đi một thời gian, liệu nàng có chung chạ chăn gối với hắn ta không là điều không ai biết. Nghi ngờ danh tiết của vợ nên Ra-ma có ý muốn chối bỏ dù rất yêu thương vợ.
Xi-ta đã hết lời thanh minh nhửng Ra-ma vẫn không chịu tin, cuối cùng nàng đã tìm đến Lửa thần A- nhi để nhờ người chứng minh cho tấm lòng trinh bạch, thủy chung cả nàng. Đoạn trích Ra-ma buộc tội đã thể hiện được thái độ và quan điểm của nhà văn về Ra-ma- một vị vua mẫu mực, lí tưởng của đất nước Ấn Độ và hình tượng người phụ nữ Ấn Độ Xi-ta.
Ra- ma là người quân vương hội tụ được đầy đủ phẩm chất, năng lực của người đứng đầu một nước. Phẩm chất cao quý của chàng được thể hiện rõ nét qua đoạn trích này. Trong cuộc gặp gỡ với Xi- ta dù lòng rất nhớ thương vợ nhưng Ra-ma vẫn tỏ ra lạnh lùng và chối bỏ vợ vì lúc này chàng không chỉ là một người chồng mà nàng còn là một người quân vương, người đứng đầu đất nước, do vậy chàng đã đặt trách nhiệm với quốc gia dân tộc lên trên tình cảm cá nhân, cần suy xét rõ ràng, minh bạch mọi chuyện, dù đó có là vợ mình đi chăng nữa.
Trước đông đảo quần thần và bạn hữu, nếu Ra-ma không xử lí tốt chuyện gia đình thì sẽ gây nên những điều tiếng đáng tiếc, ảnh hưởng đến uy tín của bậc quân vương. Đối với Ra-ma thì uy tín và danh dự của bản thân và gia tộc là điều quan trọng hàng đầu, dù yêu thương vợ nhưng chàng không thể bất chấp tất cả, vượt lên những điều tiếng không hay của dư luận mà đón nàng về cung điện.
Nếu Ra-ma là mẫu quân vương lí tưởng thì Xi-ta lại là hình tượng người phụ nữ lí tưởng của người phụ nữ Ấn Độ xưa, ở nàng hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp: son sắc, thủy chung. Trong cuộc hội ngộ với Ra-ma, không những không có những phút giây đoàn viên hạnh phúc mà nàng đã phải chịu nhiều đau khổ, ê chề từ thái độ lạnh lùng và hành động rũ bỏ của chồng mình là Ra-ma.
Trước những lời nói của Ra- ma, Xi- ta đã vô cùng đau lòng, nàng đau đớn đến nghẹt thở, cảm giác như có sợi dây leo thít chặt vào da thịt. Đặc biệt, những lời hàm nghi của Ra- ma lại được nói trước đông đảo dân chúng và bạn hữu, nàng đã tủi thân, xấu hổ cho số phận của mình. Nàng đã cố gắng minh bạch tấm lòng trong sạch của mình nhưng Ra- ma đều nhẫn tâm phũ bỏ tất cả.
Cuối cùng, không còn cách nào khác, Xi-ta đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của thần lửa A- nhi, nàng đã bước lên giàn hỏa thiêu để nhờ thần Lửa chứng minh cho sự trung trinh, trong sạch của mình. Cảm động trước tấm lòng của nàng, thần lửa A- nhi đã xuất hiện mà chứng minh sự trong sạch của Xi-ta trước tất cả dân chúng, quần thần, bạn hữu. Nhờ vậy mà Ra- ma hiểu được tấm lòng và sự thủy chung của vợ, hai người đã được đoàn tụ thực sự mà không có bất kì khoảng cách nào khác.
Mọi người có mặt ở đó đều cảm động trước hành động dũng cảm và tấm lòng trong sạch của Xi-ta, những tiếc khóc thương của những người xung quanh chính là sự đồng cảm, tấm lòng cảm động của đông đảo mọi người đối với nàng. Hơn nữa, sự chung thủy, son sắc của Xi-ta đã làm cảm động cả thần lửa A-nhi. Sau bao nhiêu sóng gió, cuối cùng nàng cũng vượt qua và chạm tay vào hạnh phúc thực sự.
Qua đoạn trích Ra- ma ta có thấy được những khát vọng của người Ấn Độ và mẫu hình người anh hùng và người phụ nữ lí tưởng của thời đại bấy giờ, qua đoạn trích ta cũng hiểu được phần nào vì sao mà sử thi Ramayana lại có thể làm say đắm nhiều thế hệ đến vậy.
Phân tích tác phẩm Ra-ma buộc tội – Bài văn mẫu số 3
Đoạn “Ra-ma buộc tội” trích trong khúc ca thứ 6, chương 79 sử thi Ra- ma –ya - na. 78 chương trước kể lại dòng dõi, cuộc đời của Ra-ma, 13 năm đi đày và cuộc chiến tranh đánh thắng quỷ vương Ra-va-na để cứu nàng Xi-ta xinh đẹp. Lúc giải phóng đảo Lan-ka, Ra-ma cùng đoàn quân ca khúc khải hoàn thì hạn đi đày 13 năm gần kết thúc. Bỗng Ra-ma nổi cơn ghen tuông dữ dội. Trong chương 79, Ra-ma dùng những lời lẽ nặng nề, gay gắt buộc tội Xi-ta. nghi ngờ nàng về sự trong trắng, thúy chưng của nàng Xi-ta bước vào giàn lửa của thần An-hi để chứng minh tất cả... Ra-ma chia tay các chiến hữu. chàng cùng em trai và vợ dùng chiếc thiên xa bay về kinh đô Kô-sa-la.
Chương 79 khắc họa thêm một nét đẹp về con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya (vương công, quý tộc, võ sĩ) và đức nghĩa trung hậu, đoan trang của người phụ nữ cao quý. Khi Xi-ta đã khiêm nhường đứng trước Ra-ma, chàng nói với vợ một cách mỉa mai: “Hởi phu nhân cao quý”. Quan hệ vợ - chồng hầu như không còn nữa. Cuộc giao tranh đã kết thúc, theo Ra-ma đó là nghĩa vụ và tài năng đã hoàn thành: “Ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống” - nghĩa là nàng bị Ra-va-na bắt cóc chứ không phải đi theo hắn, “cơn giận ta đã hả, và cơn ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta”. Ra-ma đã sống vì một nguyên lí đạo đức của đẳng cấp Kơxatrya của mình: “kê nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù, là kẻ tầm thường”. Ra-ma cũng dành những lời tốt đẹp nhất để ca ngợi Ha-nu-man và Vi-phi-sa-na - hai chiến hữu tài ba, cao cả của mình.
Trước nhan sắc của Xi-ta: “khuôn mặt bông sen”, “những cuộn tóc cuộn sóng” và những giọt lệ của nàng, lòng Ra-ma “đau như cắt”, nghĩa là chàng vẫn say đắm Xi-ta. Nhưng danh dự là trên hết, là tất cả, bởi lẽ người anh hùng “sợ tai tiếng”. Phải kết thúc chiến tranh là vì nhân phẩm, là để “xóa bò vết ô nhục vi sợ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm của mình”. Ra-ma không thế “nhận nàng về”, “không ưng có nàng nữa” vì nàng đã lưu lại tại nhà một kẻ xa lạ, vì Ra-va-na với “đôi mắt tội lỗi... hau háu nhìn khắp người nàng” nghĩa là nàng thất thân với hắn, cho nên Ra-ma phải nghĩ đến “gia đình cao quý” đã sinh ra mình.
Tóm lại, Ra-ma vẫn còn yêu Xi-ta xinh đẹp nhưng vì danh dự, nhân phẩm của người anh hùng, của dòng họ cao quý mà chàng phải buộc tội Xi-ta, chấm dứt quan hệ vợ chồng với nàng: “Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tùy nàng, ta không ưng có nàng nữa”. Ra-ma cảm thấy xấu hố bị xúc phạm; khi trông thấy Xi-ta thì “không chịu nổi”, “chẳng khác ánh sáng với người bị đau mắt”. Ra-ma ghen tuông buộc tội không phải vì mù quáng mà trái lại, ghen tuông và buộc tội vì nhân phẩm, danh dự, một nét tính cách của con người thiện của đẳng cấp Kơxatrya cao quý trong xã hội Ấn Độ thời đại cổ đại.
Xi-ta được miêu tả trong chiều sâu của bi kịch về tình yêu và danh dự.
Nàng đau khổ vì bị oan, bị xúc phạm. Nàng "đau đớn nghẹn thở". Nàng xấu hổ cho số kiếp của nàng", nàng muốn chết ngay "muốn tự chôn vùi cả cái hình hài của mình". Nàng vô cùng đau đớn trước những lời buộc tội của Ra-ma, nàng cảm thấy hình như muôn nghìn mũi tên "xuyên vào trái tim nàng". Nàng khóc, "nước mắt nàng đổ ra như suối". Xi-ta đoan trang và bình tĩnh bác bỏ mọi lời buộc tội của Ra-ma. Nàng khẳng định: "Trái tim thiếp đây, thuộc về chàng". Chàng chưa hiểu được thiếp qua tình yêu và tâm hồn thiếp. Chàng tự hào về dòng dõi cao quý thì thiếp có kém gì: "đất là mẹ của thiếp". Nếu Ra-ma mỉa mai gọi Xi-ta là "phu nhân cao quý" thì Xi-ta cũng đàng hoàng đáp lại: "Hỡi đức vua" và trách "cớ sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp?".
Xi-ta nhảy vào giàn hỏa thiêu là một cảnh vô cùng bi tráng. Ai đã từng mục kích điệu múa "Nàng Xi-ta"? Ra-ma "khủng khiếp như Thần chết!". Các thánh thần tự hào nhìn Xi-ta nhảy vào lửa "chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh". Đông đảo phụ nữ thì "chẳng khác nào một đồ cúng trong lễ tế sinh". Đông đảo phụ nữ thì "kêu khóc thảm thương". Loài ma quỷ như Va-na-ra, Paksaxa cũng "kêu khóc vang trời".
Hình ảnh Xi-ta đàng hoàng tự tin. Nàng "lượn quanh" Ra-ma như để chào vĩnh biệt. Nàng lạy chư thần cao quý thiêng liêng. Nàng cất lời nguyền với thần A-nhi: khẳng định mình bị oan, một phụ nữ trinh tiết bị coi như một kẻ gian dối; tự hào về lòng trong trắng thủy chung trong tình yêu; cúi xin Thần "bảo vệ con", "phù hộ con". Ta hãy nghe lời nguyện cầu của nàng Xi-ta: "Nếu con trước sau một lòng dạ với Ra-ma thì cúi xin Thần hãy tìm hét cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối; nhưng nếu con trong trắng xin thần A-nhi phù hộ cho con".
Đọc sử thi Ra-rna-ya-na ta như thấy ngọn lửa sáng rực bừng ánh mặt trời, nàng Xi-ta lộng lẫy kiều diễm múa như bay theo ánh lửa, thần lửa A-nhi minh chứng và cứu sống nàng. Ra-ma dang đôi cánh tay đón Xi-ta, nước mắt chan hòa sung sướng, vừa ân hận, vừa tự hào.
Phân tích tác phẩm Ra-ma buộc tội – Bài văn mẫu số 4
Ramayana là 1 trong 2 bộ sử thi vĩ đại nhất của người Ấn Độ, là tác phẩm bất hủ, có sức sống trường tồn và thành bài ca của thời đại. Người Ấn Độ thường tự hào rằng “chừng nào sông chưa cạn, núi chưa mòn thì sử thi Ramayana cong làm say lòng người và cứu giúp họ ra khỏi tội lỗi”.
Một trong những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm chính là việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật. Nếu Sita là mẫu người phụ nữ Ấn Độ xinh đẹp, thủy chung, dịu dàng, hiền hậu thì Rama là mẫu người anh hùng lí tưởng, vị minh quân tuấn tú, tài năng, trọng danh dự. Rama hiện lên với sự lí tưởng và con người trần thế, là nhân vật trung tâm trong tác phẩm, là điểm sáng choi trong tác phẩm và là con người mẫu mặc, lí tưởng của thời đại.
Về nguồn gốc xuất thân .theo truyền thuyết, Rama là hóa thân thứ 7 của thần Visnu- đấng tối cao của đẳng cấp quý tộc Bà la môn. Visnu được giáng thế làm người cứu nhân loại ra khỏi vòng trầm luân đau khổ trong chiến tranh loạn lạc. Mục đích giáng trần vô cùng cao quý đó là cứu nhân độ thế, tiêu diệt cái ác, bảo vệ cái thiện. Lúc đó có con quỷ Ravana, rakshara 10 đầu độc ác, tự phụ do hắn đã được đấng Brahma ban sức mạnh bất diệt cho hắn và do hắn có khả năng làm cho các hành tinh quay chậm lại, thậm chí đứng lại khiến đấng Bhahma lo lắng đành chấp nhận mọi yêu cầu của hắn để cứu lấy vũ trụ. Không 1 ai có thể tiêu diệt hắn trừ con người và muông thú trên trái đất, do hắn đã quá khinh mạn. Vì vậy, Rama được hóa thân với trong trách tiêu diệt quỷ Ravana.
Trước hết, Rama là nhân vật lí tưởng kiểu mẫu của đạo Hindu vằ đẳng cấp vương công quí toojcKsatrya, đồng thời cũng thể hiện khát vọng của nhân dân đương thời là muốn có 1 vị minh quân, 1 vị anh hùng tài ba, đức độ và dũng cảm để bảo vệ mình cứu mình ra khỏi đau khổ, đem lại công lí và hạnh phúc xã hội.
Đi suốt chiều dài tác phẩm, chàng Rama đã được các nghệ sĩ dân gian miêu tả ở mọi góc độ, mọi phương diện. Chàng là hoàng tử thông minh, tài giỏi nhất trong 4 vị hoàng tử, là người duy nhất được đạo sĩ lựa chọn, chàng hơn hẳn các em về trí tuệ, nhân cách và lòng quả cảm, do vậy mà chàng được mọi người yêu mến, dân chúng vui mừng, ủng hộ lên ngôi vua. Chàng là người biết quí trọng danh dự, thực hiện bổn phận của 1 người con, 1 vị vua nhân đức. Cha của Rama – đức vua Darasatha trước kia đã từng hứa với thứ phi Kakeyi sẽ thực hiện 2 lời hứa bất kì của bà ta.
Vào trước hôm Rama lên ngôi vua, Kakeyi đã nhắc lại với nhà vua điều hứa năm xưa và muốn nhà vua nhường ngôi cho con trai bà ta – Bharata thay vì Rama, và nhà vua phải ra lệnh cho Rama chịu lưu đày trong rừng 14 năm. Vì không muốn cha phải trở thành kẻ thất hứa bị mọi người chê cười, muốn bảo vệ danh dự cho cha, Rama đã thực hiện lời hứa của cha với thứ phi Kakeyi cho dù chàng hoàn toàn có thể ở lại và dù Bharata cũng từ chối ngôi vua này. Rama xuất thân là 1 hoàng tử, đang sống trong nhung lụa nhưng đã từ bỏ cuộc sống cao sang, phú quý nơi cung đình điện ngọc để vào rừng. Lời hứa của cha là danh dự, danh dự của cha chính là danh dự của mình và của cả dòng giống, Tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của cha, đó là bổn phận người làm con – Đây là những tiêu chuẩn đạo đức của đẳng cấp và xã hội Ấn Độ đương thời. Rama có sức mạnh phi thường, võ nghệ cao cường, lòng nhân đức cao cả.
Chàng có đôi mắt sáng như mặt trời và mặt trăng, có đôi tai thấu nhạc của trời đất, là kẻ thù của mọi sự ghen tương, giận hờn và tội ác tàn bạo, đã vượt qua mọi gian nan thử thách, chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc, đem lại công lí, cuộc sống yên vui cho mọi người. Rama có ngoại hình miêu tả phù hợp với tiêu chí thời đại, 1 hoàng tử tuấn tú và sức khỏe phi thường, chàng giống như 1 vị thần cõi trần gian. Thực tế ngoại hình chàng không được miêu tả cụ thể mà chỉ nhắc đến như 1 yếu tố tô dậm vẻ đẹp của chàng. Sức mạnh của chàng được thể hiện qua các hành động. Từ nhỏ Rama đã được rèn luyện, được giáo dục 1 cách khuôn phép, có nguyên tắc.
Chàng là người duy nhất nhấc được cây cung thần, cung rất to và nặng chỉ có thể giương bằng 1 chiếc xe có 8 bánh khổng lồ và chưa 1 ai có thể nâng cung lên để bắn. Vậy mà Rama có thể nhẹ nhàng nâng cung lên, kéo dây 1 cách dễ dàng. Cũng nhờ vây mag Rama có thể lấy được nàng Sita – con vua Janaka- xinh đẹp, hiền thục về làm vợ. Sau khi rời bỏ địa vị để vào rừng Rama đưa vợ (nàng Sita) và người em trai Lakshamana theo, họ hạnh phúc sống bên nhau trong rừng. Trong khi tu luyện nơi này, chàng đã lập được rất nhiều chiến công giúp cho nhân loại tránh khỏi tai ương. Chàng dã tiêu diệt rất nhiều quỷ dữ: Con quỷ Vali, quỷ khổng lồ vô địch, đánh quỵ trâu thần Dundubbi.
Rama diệt trừ quỷ Thataka và đặc biệt là quỷ vương Râvana. Với tinh thần hiệp nghĩa, Rama đã chiến đấu giành lại ngôi báu cho Sugriva khi Sugriva bị quỷ Vali cướp vợ và đuổi đi. Đây là hành động thể hiện ước mơ công lí của người Ấn Độ. Trong bất ức hoàn cảnh chiến đấu nào, Rama vẫn cứ thể hiện được khí phách hào hùng của 1 chiến sĩ Ksattrya. Chàng là người có sức mạnh, biết sử dụng chiếc cung thần mà Brahma cung cấp, chiếc cung thu hồi gió vào đôi cánh, sức nóng mặt trời vào đầu cung, sức nặng của núi vào thân cung, để xuyên thủng ngực Ravana, kẻ thù của mình.
Đạo đức của Rama là khuôn vàng thước ngọc của đẳng cấp Ksatrya. Có thể nói, toàn bộ ý chí, tình cảm, tài năng và sức mạnh chiến thắng của nhân dân được khái quát thành biểu tượng người anh hùng này. Con người luôn bênh vực điều thiện, chống lại điều ác cứu người hiền, đặc biệt là phụ nữ. Ngoài một con người lí tưởng, Rama còn thể hiện con người trần thế của mình. Điều này thể hiện ở tình cảm, trách nhiệm của Rama với nàng Sita.
Rama là người đại diện cho vẻ đẹp thời đại. Chàng là người chung thủy, yêu Síta hết mực. Yêu Sita ngay từ cái nhìn đầu tiên khi chàng nhìn thấy, và chàng đã vượt qua mọi thử thách để lấy được nàng 1 cách đường hoàng. Chàng đã bẻ gãy cây cung mà đức vua Janaka đã thách đố. Lúc Sít bị Ravana bắt đi, chàng than khóc vật vã, đau đớn khôn nguôi và còn nói rằng: quốc gia, ngai vàng sẽ chẳng là gì nếu để mất Sita. Ở Rama luôn tồn tại 2 con người: con người bổn phận và con người tình yêu. Khi buộc phải lựa chọn, Rama sẽ chọn lựa con người bổn phận. Chính điều này đã đẩy tình yêu giữa chàng và Sita vào bi kịch. Khi chiến thắng được quỷ Ravana, Rama đã nghi ngờ phẩm tiết của Síta, trì hoãn gặp nàng, cảnh gặp gỡ không phải ở trong 1 không gian tâm tình mà là giữa đông đảo nhân dân, quần chúng khiến cho Sita phải chọn cách tự thiêu để chứng minh.
Trong “ Rama buộc tội”, không khí căng thẳng như 1 phiên tòa mà quan thẩm ohans là Rama còn bị cáo là Sita. Thái độ của chàng thể hiện thái độ ghen tuông cực độ của chàng. Lòng ghen đó đã khiến cho 1 vị minh quân vốn sáng suốt mất đi sáng suốt vốn có. Chàng không chấp nhận 1 người vợ không còn trong trắng. Chàng nhẫn tâm để vợ mình bước lên giàn hỏa thiêu. CHỉ đến khi ngọn lửa bùng cháy, thần Agni đã làm chứng cho sự trong sạch của nàng thì Rama mới nhận ra lòng chung thủy, kiên trinh của Sita. Rama tuy xuất thân từ thánh thần Visnu giáng thế, là bậc quân vương, vị anh hùng nhưng chàng cũng vẫn có đủ mọi cung bậc tình cảm của con người trần tục. Chàng yêu yêu say đắm, hết mình nhưng ghen cũng cực độ, có lúc oai phong lẫm liệt, nhưng cũng có lúc mềm yếu nhu nhược, có lúc vị tha nhưng cũng có lúc nhỏ nhen, ích kỉ.
Ngòi bút xây dựng nhân vật, miêu tả tâm lí vô cùng tinh tế, xuất sắc, sánh ngang với đại thiên tài W. Shakespeare. Ngòi bút nghệ thuật của Valmiki đã lột tả 1 Rama rất “người” khiến cho nhân vật này vượt qua 1 nhân vật sử thi thông thường, vượt lên trên mọi ước lệ, khuôn sáo thừng thấy. Phan Ngọc nhận định rằng “Cái kì diệu nhất vẫn là tài phân tích tâm lí nhân vật. Có thể nói, không quá đáng khi nói rằng chỉ đến lúc W.Shkespeare xuất hiện thì Valmiki mới có đối thủ”.
Phân tích tác phẩm Ra-ma buộc tội – Bài văn mẫu số 5
Đoạn trích “Ra-ma buộc tội” là đoạn đã kể về sự kiện hoàng tử Ra-ma sau khi hạ gục quỷ vương Ra-va-na đã giành lại được người vợ yêu quý là nàng Xi-ta kiều diễm. Vợ chồng Xi-ta đã gặp lại nhau, Xi-ta quá đỗi vui mừng khôn xiết. Nhưng trớ trêu thay Ra-ma nghi ngờ vợ mình không giữ được trọn vẹn danh tiết trong thời gian bị quỷ Ra-va-na bắt cóc nên đã tuyên bố từ bỏ nàng. Nàng Xi-ta đau khổ và tuyệt vọng không thể thanh minh nên đành bước lên dàn hoả thiêu, nhờ thần Lửa A-nhi chứng giám cho đức hạnh trung trinh của mình. Qua nội dung đoạn trích “Ra-ma buộc tội” này thì dường như các tác giả đã thể hiện quan điểm về vị vua mẫu mực (Ra-ma) và về người phụ nữ lí tưởng (Xi-ta) của dân tộc Ấn Độ cổ xưa.
Ra-ma là nhân vật hội tụ đầy đủ tính cách của một vị anh hùng mà dân tộc Ấn Độ lúc bấy giờ. Tính cách cao quý của chàng được thể hiện rõ trong mọi tình huống và ở đoạn trích này là khá đặc biệt. Nếu giống như chúng ta sau bao nhiêu ngày xa cách và cuộc chiến gian khổ để dành lại người mình yêu thương nhất, đáng lẽ chàng phải vui mới phải. Nhưng Ra-ma lại đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Chàng Ra-ma đã không ngại ngần gì mà đã nói với Xi ta:” Hỡi phu nhân cao quý, Ta đã đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và cơn giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đã được chứng kiến tài nghệ của ta.
Ta đã làm tròn lời hứa và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Ra-va-na tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận của nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào mà đã bị quân thù lăng nhục nhưng lại không đem tài nghệ của mình ra trả thù thì đó là kẻ tầm thường. Đây rõ rằng là lời tuyên bố của một vị anh hùng đầy khí chất. Coi danh dự của bản thân hơn cả tính mạng con người. Ra-ma đã đi ngược lại với lẽ tự nhiên. Ra-ma đã anh dũng chiến đấu và đã chiến thắng quỷ vương Ra-va-na trước hết là vì danh dự dòng dõi cao quý của mình, vốn là người thẳng thắn, trung thực mà Ra-ma đã không hề giấu diếm suy nghĩ về người vợ mà chàng vừa giành lại được từ tay quỷ vương:…
Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xóa bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lẫy lừng tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Và Ra-ma đã phải nghi ngờ tư cách của nàng, vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ, không hề biết đến. Và đau khổ hơn khi giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu thì tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Và dường như việc Ram-ma đã sinh trưởng trong một gia đình cao quý có thế nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương? Nàng Xi-ta đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?
Cuộc gặp gỡ diễn ra giữa Ra-ma và Xi-ta không chỉ có hai người mà diễn ra trước đông đảo anh em, bạn hữu và dân chúng. Chính bởi thế Ra-ma không thể chỉ cư xử với tự cách của một người chồng mà còn với tư cách của một vị anh hùng vừa chiến thắng kẻ thù một cách vinh quang và cao hơn nữa là tư cách của một đấng quân vương. Do vậy mà ta không thể nào mà trách Ra-ma quá lạnh lùng, tàn nhẫn, vì con người của giai cấp, con người của xã hội trong chàng buộc Ra-ma phải cư xử một cách tàn nhẫn như vậy với người vợ mà chàng trân trọng gọi là phu nhân cao quý.
Còn đối với nhân vật Ra-ma thì danh dự của bản thân, gia đình và dòng tộc là quan trọng nhất, cho nên dẫu yêu thương người vợ hiền thục, xinh đẹp đến mấy đi chăng nữa thì chàng vẫn phải chối từ vì không thể vượt lên trên dư luận. Và dường như những lời nói của hoàng tử Ra-ma khiến Xi-ta tan nát cả cõi lòng; Nàng đau đớn đến nghẹt thở, như một dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe xong những lời tố cáo được coi như chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Xi-ta xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng Xi-ta lúc này như muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma thật đâu, như xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nỗi trách chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp bèn vậy? Thiếp đâu phải là người như chàng suy tưởng? Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thềvà khẳng định, hãy tin vào danh dự của thiếp. Chàng đừng suy từ những hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ trên thế giới này đều vậy, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi…
Trong cơn tuyệt vọng đến cùng cực và trước thái độ khó lay chuyển trước sau một lời của hoàng tử Ra-ma Xi-ta chi còn cách duy nhất là nhờ thần Lửa A-nhi minh oan cho mình là “Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con”. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối không thể tha thứ, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con. Dứt lời, nàng dũng cảm bước vào ngọn lửa đang rừng rực cháy của giàn hỏa thiêu. Nàng Xi-ta thật đẹp và oai hùng khi bước vào giàn hỏa thiêu nóng rực kia. Và trong khi đó mọi người đều khâm phục và kính nể nàng, gì trẻ trai gái đều tiếc thương và cảm thông cho số phận của nàng. Mọi vật xung quanh đều bật ra tiếng khóc thương cho số phận bất hạnh của nàng.
Đức hạnh trung trinh cùng lòng dũng cảm tuyệt vời của nàng Xi-ta đã làm chấn động cả thần thánh, con người và ma quỷ. Tất thảy đểu rơi lệ trước nỗi oan của nàng. Cuối cùng quả đúng như lời cầu xin của nàng Xi-ta, thì thần Lửa A-nhi đã giải oan và bảo vệ nàng nguyên vẹn.
Qua sử thi nổi tiếng “Ramayana” chúng ta thấy dân tộc Ấn Độ đã dựng lên một vị anh hùng của chính dân tộc họ và qua đó cũng thấy được sự đức hạnh, thủy chung của người phụ nữ Ấn Độ lúc bấy giờ.