Khe chim kêu
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Vương Duy (701 - 761), tự là Ma Cật.
- Quê: đất Kĩ, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc).
- Năm 21 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, nhưng có một thời gian dài ông sống như người ẩn dật, “mỗi lần bãi triều về là đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật”
2. Sự nghiệp sáng tác
- Cùng với Mạnh Hạo Nhiên, Vương Duy là đại biểu của phái thơ sơn thủy (thơ lấy thiên nhiên làm đề tài) thời Thịnh Đường.
- Thơ Vương Duy hiện còn hơn 400 bài.
- Phong cách thơ: tinh tế, trang nhã.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Bố cục
- Hai câu đầu: Cảnh thanh vắng, an nhàn.
- Hai câu sau: Khoảnh khắc xao động, nhiều dư âm của khung cảnh.
b. Thể loại: Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Hai câu đầu
Nhân nhà hoa quế lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không.
- Hai câu thơ đầu thể hiện hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thủy, hòa mình vào thiên nhiên.
- Có sự giao hòa, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh: Trong đêm tĩnh lặng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi.
=> Cho thấy sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong chính tâm hồn của thi nhân.
- Có sự kết hợp của ba từ "lạc" (rụng), "tĩnh" (vắng lặng), "không" (vắng không) => gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi.
=> Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.
b. Hai câu thơ sau
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh giản tại trung.
- Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động.
- Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.
- Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật.
=> Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh - sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn
c. Giá trị nội dung
- Khe chim kêu là bài miêu tả cảnh thanh nhàn, yên tĩnh của một vùng núi hoang sơ.
- Cảnh đẹp như một bức tranh với những âm thanh của hoa quế rụng, trăng lên hay là tiếng chim kêu thảng thốt trong màn đêm tĩnh lặng.
d. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm.
- Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, tinh tế.
III. Phân tích tác phẩm
a)Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về Vương Duy: là một nhà thơ nổi tiếng với phong cách thơ thiên nhiên tinh tế, tao nhã.
- Giới thiệu chung về bài thơ Khe chim kêu (Điểu minh giản): là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên đẹp như một bức tranh.
2. Thân bài
a. Hai câu đầu
Nhân nhàn hoa quế lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không.
- Hai câu thơ đầu thể hiện hình ảnh con người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ nơi điền viên sơn thủy, hòa mình vào thiên nhiên.
- Có sự giao hòa, giao cảm một cách tự nhiên giữa người và cảnh: Trong đêm tĩnh lặng, thi nhân nghe được tiếng hoa quế rơi.
=> Cho thấy sự nhạy cảm và tĩnh lặng trong chính tâm hồn của thi nhân.
- Có sự kết hợp của ba từ "lạc" (rụng), "tĩnh" (vắng lặng), "không" (vắng không) => gợi sự tịch mịch của cảnh đêm nơi rừng núi.
=> Cảnh và người thật hòa hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.
b. Hai câu thơ sau
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh giản tại trung.
- Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động.
- Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.
- Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật.
=> Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh - sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn.
3. Kết bài:
- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ: với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm đầy tài tình, bài thơ đã miêu tả một bức tranh với những thanh âm nhẹ nhàng của thiên nhiên, qua đó ta thấy được tình yêu thiên nhiên đầy tinh tế.
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Khe chim kêu – Bài văn mẫu số 1
Vương Duy (701 – 761), tự là Ma cật, quê ở đất Kì, Thái Nguyên (nay là huyện Kì, tỉnh Sơn Tây). Năm Khai Nguyên thứ 9(721), ông đỗ đầu kì thi tiến sĩ, được làm Đại nhạc thừa (có tài liệu ghi là Thái nhạc thừa). Tuy có lần bị biếm trích nhưng nhìn chung, quan trường của Vương Duy tương đối thông thuận.
Trong những năm Thiên bảo, ông sống cuộc đời bán quan bán ẩn. Loạn An – Sử, Huyền Tông chạy vào đất Thục, Vương Duy không đi theo kịp, bị An Lộc Sơn bắt và bị ép làm quan với nguỵ triều. Sau khi Trường An được thu phục, Vương Duy bị định tội, nhờ có người em là Vương Tấn xin giải chức để chuộc tội cho anh nên Vương Duy được xá tội, bị giáng làm Thái tử Trung Doãn. Năm 761, ông bị bệnh mất khi đang giữ chức Thượng thư hữu thừa.
Vương Duy là nhà thơ sùng tín Phật giáo, học đốn ngộ thiền với Đạo Quang thiền sứ, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thiền học Phật giáo. Thơ ông mang đậm ý vị thiền nên người đời gọi ông là Thi Phật. Thơ Vương Duy có nội dung phong phú, ông thành công trên nhiều đề tài nhưng thành tựu dặc biệt nổi bật là thơ sơn thuỷ. (Vương Duy và Mạnh Hạo Nhiên là đại biểu của phái thơ sơn thuỷ thời Thịnh Đường).
Thơ Vương Duy hiện còn 417 bài, với phong cách trang nhã, điêu luyện tiêu biểu cho thi phong Thịnh Đường, thơ ông đúng là Văn tông của thời đại như lời vua Đường Đại Tông khen ngợi. Vương Duy sành nhiều bộ môn nghệ thuật, ông chẳng những là nhà thơ kiệt xuất mà còn là nhạc sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng và là một danh họa của Trung Quốc.
Nhà thơ nổi tiếng thời Tống là Tô Đông Pha nói rằng: Đọc thơ Ma Cật thấy trong thơ có hoạ, xem họa Ma Cật thấy trong họa có thơ. Điểu minh giản thể hiện được đặc trưng cơ bản của thơ Đường
Phiên âm:
Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kỉnh sơn điều
Thời minh tại giản trung.
Dịch nghĩa:
Người thảnh thơi, họa quế rụng,
Đèn im lặng, non xuân vắng không.
Trăng lên làm chim núi giật mình,
Thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối.
Dịch thơ:
Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh.
Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi.
(Ngô Tất Tố dịch)
Người nhàn hoa quế rụng,
Đêm xuân núi vắng teo.
Trăng lên chim núi hãi,
Dưới khe chốc chốc kêu.
(Tương Như dịch)
Cảnh đẹp thanh u của đêm xuân trong núi vắng được thể hiện bằng bút pháp đặc trưng của Đường thi: lấy động thể hiện tĩnh. Từ hoa rụng đến trăng lên khiến chim núi giật mình kêu trong khe suối, cảnh nào cũng đọng nhưng lại là cái động rất khẽ khàng, vi tế. Thông qua những động thái khẽ khàng đó, có thể thấy người nhàn, đêm thanh, núi vắng. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa động và tĩnh.
Cây quế cành là sum sê nhưng hoa quế rất nhỏ, vậy mà nghe được tiếng hoa quế rụng, rõ là người nhàn, đêm vắng, trăng lên không tiếng động, vậy mà làm chim núi giật mình, mới biết trong khe yên ắng đến mức chỉ một thay đối nhỏ cũng khuấy động sự yên tính. Sau mấy tiếng chim kêu thưa thớt, núi xuân càng u tịch.
Lấy động để nói tĩnh, lấy cái hữu thanh để gửi gắm cái vô thanh, đó là thủ pháp độc đáo trong thơ sơn thuỷ của Thi Phật Vương Duy. Phép biểu hiện ấy vừa kiến người ta cảm nhận được cái tĩnh, các thanh u của đêm xuân núi vắng, vừa khiến cho cảnh không đến mức trầm tịch mà rất trong trẻ, đúng là thanh – tĩnh, lặng và trong. Sở dĩ đạt được điều ấy chính vì tâm hồn con người cũng thật là thanh tĩnh, có một sự giao hoà giữa tâm và cảnh.
Tiếng đêm tinh tế làm xao động tâm hồn bình yên, đó cũng là bóng dáng của môt thời đai thái bình. Thời đai thái bình khiến cho thiên nhiên, cảnh vật, con người đều thanh thản, bình yên, các đắc kỳ sở – tất cả đều có được cái nơi bình yên của mình. Khúc nhạn hài hoà của sự tĩnh lặng ấy, hơn ngàn năm sau lại được đại thi hoà Ta-go diễn tả: Tôi đã nhúng bầu tim tôi vào trong sự lặng yên này, nó tràn ngập tình yêu.
Bài thơ thể hiện được đặc trưng cơ bản của thơ Đường, khiến cho bước vào thế giới nghệ thuật thơ Đường, ta bước vào thế giới của sự hoà điệu.
Phân tích tác phẩm Khe chim kêu – Bài văn mẫu số 2
Vương Duy là một nhà thơ lớn của văn học đời Đường, ông để lại cho thế hệ sau hàng trăm tác phẩm có giá trị. Bài thơ "Điều minh giản" (Khe chim kêu) là một trong những tác phẩm hay và độc đáo của ông. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn, chỉ vỏn vẹn hai mươi từ nhưng để lại nhiều ý vị thâm trầm mà sâu sắc.
"Nhân nhàn quế hoa lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh tại giản trung".
Người đọc nghe thấy gì, nhìn thấy gì trong bút tranh thuỷ mặc "Điểu minh giản" này? Hai câu thơ vừa có cảnh, vừa có tình. Đêm yên tĩnh (dạ tĩnh) là thời gian nghệ thuật. Ngọn núi xuân xa mờ hiện lên trong vắng lặng. Một đóa hoa quế rụng. Hoa nguyệt quế trắng phau, thơm nồng nàn, mỗi tháng nở hoa một lần; thi sĩ không tả màu sắc, hương thơm hoa nguyệt quế, mà chỉ gợi tả "quế hoa lạc".
Chữ "rụng" lạc là nhãn tự. Tác giả lấy động, tiếng hoa quế rụng để làm nổi bật cái vắng không của núi xuân, cái yên tĩnh của đêm xuân về khuya. Đó là không gian nghệ thuật. Chữ "nhàn" qua hình ảnh "nhân nhàn" là tâm trạng nghệ thuật: nhà thơ sống thư nhân, tâm hồn thư thái, mơ màng, lắng nghe tiếng rụng của hoa quế rơi. Mơ hồ và thì thầm. Đó là tiếng đâm xuân êm đềm. Phải chăng đó là tiếng thở nhẹ của giai nhân?
Đóa hoa quế chỉ bằng chiếc cúc bạch ngọc mỏng manh, rụng xuống se sẽ thế mà thi nhân nghe được, cảm được, không chỉ tâm nhàn mà còn hồn mộng. Người và Cảnh giao hoà. Ngô Tất Tố dùng thơ lục bát đế dịch thơ ngũ ngôn của Vương Duy đã tạo nên nhạc điệu êm đềm thơ mộng:
"Người nhàn hoa quế nhẹ rơi,
Đêm xuân lặng ngắt trái đồi vắng tanh".
Hai câu cuối là nét vẽ vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Trăng đột hiện, trăng xuân. Vì ở núi cao nên thấy trăng mọc rất rõ. Bóng tối của màn đêm nơi núi xuân như bị xua tan. Ánh trăng đã làm cho con chim núi giật mình (kinh sơn điểu) cất tiếng kêu nơi khe sâu bên vách núi. Nghệ thuật chấm phá của ngòi bút nghệ thuật của Vương Duy thật thần tình: lấy động (tiếng chim kêu trong khe) để đặc tả cái vắng lặng, êm đềm của núi xuân, đêm xuân; lấy sáng đế tả tối, lấy ánh trăng để tả màn đêm, tả cái sâu hút, thâm u của khe suối.
Thi nhân chỉ chấm phá, điểm nhấn bằng một vài đường nét mà rung động, ấn tượng. Tiếng chim kêu trong khe, ánh tráng vừa mọc như làm cho nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Ngô Tất Tổ đã dịch khá hay và sáng lạo:
"Trăng lên, chim núi giật mình,
Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi".
"Điểu minh giản" là bài thơ tuyệt tác của Vương Duy. "Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu cầm". Một bông hoa quế rụng. Một ngọn núi xuân vắng không. Một đêm xuân tĩnh lặng, êm đềm. Trăng mọc. Chim núi giật mình kêu lên trong khe núi. Giữa khung cảnh êm đẹp ấy, nhà thơ chợt tỉnh giấc mộng đêm xuân. Tâm nhàn, mộng đẹp, cảnh hữu tình nên thơ. "Điểu minh giản" mang vẻ đẹp của một bức họa sơn thủy của Vương Duy lấp lánh trong sắc màu thời gian.
Phân tích tác phẩm Khe chim kêu – Bài văn mẫu số 3
Vương Duy là một nhà thơ lớn của văn học đời Đường, ông để lại cho thế hệ sau hàng trăm tác phẩm có giá trị. Bài thơ "Điều minh giản" (Khe chim kêu) là một trong những tác phẩm hay và độc đáo của ông. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn, chỉ vỏn vẹn hai mươi từ nhưng để lại nhiều ý vị thâm trầm mà sâu sắc.
"Nhân nhàn hoa quế lạc,
Dạ tĩnh xuân sơn không"
Hai câu thơ vẽ ra một bức tranh êm dịu, người thi sĩ đang trong tâm thế nhàn nhã, thoải mái không vướng bận ưu tư trong những tháng ngày ẩn dật của mình. Một không gian rất tĩnh lặng hiện ra và tâm hồn nhà thơ cũng tĩnh lặng như vậy.
Tiếng cánh hoa quế rụng giữa khoảng không được tác giả cảm nhận thật tinh tế, tiếng rơi khẽ khàng trong đêm thực khó có thể nghe thấy nhưng tâm hồn tĩnh lặng của thi sĩ đã nghe thấy rất rõ, một cảm nhận vô cùng tuyệt diệu mà độc đáo. Dường như ta bắt gặp vẻ đẹp ấy trong hồn thơ của Trần Đăng Khoa:
"Ngoài thềm rơi chiếc lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng"
Giữa đêm xuân tĩnh mịch, ánh trăng hiện lên thật huyền ảo, mờ hoặc: "Trăng lên, chim núi giật mình". Cảnh vật được chiếu sáng tạo nên nét xuân riêng, tĩnh lặng mà êm dịu, ánh trăng sáng trở thành bạn tâm giao, tri kỉ của nhà thơ, rọi xuống thế gian vẻ dịu hiền muôn thuở. Ánh trăng lên khiến cho chim núi giật mình hay chính lòng người cũng chợt giật mình thổn thức.
"Tiếng kêu thủng thẳng đưa quanh khe đồi". Tiếng chim kêu tưởng chừng như phá tan đi bầu không khí yên tĩnh của núi mùa xuân nhưng hoá lại càng tô đậm lên vẻ tĩnh lặng ấy. Cảnh vật có âm thanh, có ánh sáng, có con người nhưng vẫn cảm thấy thật yên tĩnh lạ thường. Thủ pháp lấy động tả tĩnh đã tạo nên nét đặc sắc cho bài thơ.
Nguyệt xuất kinh sơn điểu,
Thời minh giản tại trung.
Không khí yên tĩnh tới mức mà một ấn tượng về thị giác (trăng lên) đã tạo nên hiệu quả như một tiếng động. Ánh sáng của ánh trăng lan tỏa làm kinh động đến tiếng chim núi, làm chim núi bừng tỉnh, giật mình, thảng thốt. Ánh trăng lên không tiếng động vậy mà cũng làm chim núi giật mình, điều đó cho thấy cảnh yên đến mức chỉ một sự thay đổi nhỏ cũng đủ làm khuấy động sự yên tĩnh.
Hai câu thơ dường như có sự chuyển dịch từ không gian tính và tối (hai câu đầu) sang động, sáng rõ hơn. Đó là sự xuất hiện của ánh sáng (trăng lên) và âm thanh (chim núi cất tiếng kêu) làm tô điểm thêm cho sự tĩnh lặng của cảnh vật. Nhà thơ lấy cái động để thể hiện cái tĩnh - sự tĩnh lặng của đêm và sự bình yên trong tâm hồn.
Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, lấy hình gợi âm đầy tài tình, bài thơ đã miêu tả một bức tranh với những thanh âm nhẹ nhàng của thiên nhiên, qua đó ta thấy được tình yêu thiên nhiên đầy tinh tế.
Phân tích tác phẩm Khe chim kêu – Bài văn mẫu số 4
Vương Duy (701 - 761) là một trong những nhà thơ nổi tiếng đời Đường, tự là Ma Cật, người đất Kì, Thái Nguyên (nay thuộc tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc). Năm 21 tuổi ông đỗ tiến sĩ, ra làm quan, nhưng có một thời gian dài ông sống như người ẩn dật, "mỗi lần bãi triều về là đốt hương ngồi một mình, đọc kinh niệm Phật". Thơ Vương Duy thuộc loại thơ điền viên sơn thuỷ.
Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ ông mang tính chất thanh nhàn, yên tĩnh, giàu chất hoạ, mỗi bài thơ là một bức hoạ
Điểu minh giản là bài thơ khá tiêu biểu cho phong cách thơ Vương Duy: cảnh vật thiên nhiên vô cùng yên tĩnh, thơ giàu chất hoạ, âm thanh lại rất sinh động. Bài thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên trong sáng nhưng gợi buồn.
Nhân nhàn quế hoa lạc
Dạ tĩnh xuân sơn không.
(Người nhàn, hoa quế rụng
Đêm yên tĩnh, non xuân vắng không)
Người sống trong cảnh nhàn hạ, đó là cuộc sống của người ẩn sĩ. Hoa quế là loài hoa rất nhỏ, nên hoa rụng không gây nên sự thanh động nào cả. Cảnh vật vẫn rất nhẹ nhàng và thanh cao. Một khung cảnh thiên nhiên trữ tình, một bức tranh sơn thuỷ đáng yêu. Cảnh và người thật hoà hợp, người thì nhàn nhã, cảnh thì thanh tao, những bông hoa li ti nhẹ rơi càng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch. Đêm đã yên tĩnh, đêm trên núi vắng vào mùa xuân lại càng tĩnh lặng hơn.
Một chữ "tĩnh" và một chữ "không" cộng hưởng để làm bật lên sự tịch mịch của đêm trên núi vắng. Không gian ở đây là núi chứ không phải "đồi". Ngô Tất Tố dịch câu này chưa sát nghĩa lắm. "Tĩnh" cũng khác với "vắng tanh". Cảnh vật ở hai câu đầu thiên về vẻ tĩnh và tối. Một đêm mùa xuân yên tĩnh và thanh tao. Nhưng đến hai câu sau, không gian đột ngột có sự thay đổi, tưởng như trái ngược với cảnh ở hai câu trên.
Nguyệt xuất kinh sơn Điểu,
Thời minh Xuân giản trung.
Ánh trăng ló lên làm chim núi giật mình
Thỉnh thoảng hót trong khe núi.
Đó là sự xuất hiện của âm thanh và ánh sáng. Ánh sáng của trăng xuân đã lên và âm thanh của tiếng chim núi giật mình. Tưởng như cảnh sáng hơn và động hơn, nhưng thực ra ánh sáng và âm thanh chỉ đủ sức làm nổi bật hơn sự tĩnh lặng của đêm trên núi vắng. Trăng làm tăng vẻ huyền ảo, tiếng chim "thỉnh thoảng cất tiếng kêu trong khe suối" càng làm rõ hơn cái tĩnh của đêm. Một bức tranh sơn thuỷ hữu tình, yên tĩnh nhưng không quá buồn.
Trăng lên và tiếng chim kêu được miêu tả thật sinh động, giàu sức gợi. Nhà thơ đã dùng ánh sáng để miêu tả đêm tối, dùng âm thanh để miêu tả cái tĩnh lặng. Đây cũng là một thủ pháp nghệ thuật khá quen thuộc của thơ ca đời Đường. Khung cảnh thiên nhiên như thoát tục, gợi đến một cuộc sống thanh thản và nhàn nhã chốn điền viên sơn dã. Điểm nổi bật của bức tranh này là hình ảnh một tao nhân mặc khách đang muốn lánh chốn bụi trần để tịnh tâm.
Với Điểu minh giản, Vương Duy không hổ danh là nhà thơ đứng đầu của phái thơ điền viên sơn thuỷ đời Đường, thơ và hoạ hoà hợp làm nên vẻ đẹp cho thi phẩm. Thơ điền viên sơn thuỷ của Vương Duy khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ tao khiết của tâm hồn.
Phân tích tác phẩm Khe chim kêu – Bài văn mẫu số 5
“Cảnh sắc thiên nhiên trong thơ Vương Duy rất đa dạng song phần lớn mang tính chất thanh nhàn, yên tĩnh”. Khe chim kêu là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tính chất thanh nhàn, yên tĩnh ấy trong thơ Vương Duy.
Đọc hai câu thơ đầu, chúng ta đã bắt gặp ngay hai chữ nhàn và tĩnh. “Nhân nhàn” đối rất chỉnh với “dạ tĩnh”. Chữ nhàn quá hàm súc, rất khó dịch nên hầu hết các bản dịch thơ cũng như dịch nghĩa đều để nguyên. Để nguyên như vậy rất dễ gây hiểu lầm, làm cho người đọc tưởng là hoàn toàn đồng nghĩa với chữ NHÀN như tên một bài thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm chẳng hạn. Nhàn trong văn cảnh này có nghĩa là tịch tĩnh (tịch mịch, yên tĩnh).
Có hiểu như thế mới nắm được hết ý nghĩa toát ra từ khoảng trống giữa hai vế của câu thơ thứ nhất : “Nhân nhàn – quế hoa lạc”. Quế là một loại hoa rất nhỏ, hoa quế rơi trong đêm, không dễ phát hiện, song nhờ “nhân nhàn” (hiểu theo cả hai phương diện như trên) nên đã được cảm nhận và miêu tả. Phát hiện và cảm nhận bằng giác quan nào?
Người đọc có thể tha hồ liên tưởng : có thể bằng xúc giác (cánh hoa rơi xuống đầu, mặt, tay, vạt áo,…), có thể bằng khứu giác (nhuỵ của những làn hoa rơi toả hương thơm), đặc biệt có thể bằng thính giác (cảnh tĩnh, tâm tĩnh nên có thể phát hiện được tiếng động cực nhỏ). Rõ ràng tâm cảnh của con người đã giao hoà với không khí về đêm trong núi xuân.
Câu thứ hai tô đậm đặc điểm của khung cảnh và tạo nền vững thêm cho những cảm nhận ở câu đầu : Bốn cụm chủ vị “nhân nhàn” – “quế hoa lạc” – “dạ tĩnh” – “xuân sơn không” xếp bên nhau, tuyệt không có quan hệ từ nhưng lại có quan hệ với nhau rất mật thiết : “Nhân nhàn” là cái tĩnh bộ phận, cái tĩnh của chủ thể, “dạ tĩnh” là cái tĩnh phổ quát, khách quan, là màn đêm tĩnh lặng tuyệt đối đang bao trùm lên muôn vật. Nếu đứng một mình thì cụm chủ vị “xuân sơn không” sẽ trở nên phi lí, vô nghĩa. Sao “núi xuân” lại “trống không”, không có gì, không chứa gì được?
Mùa xuân là biểu tượng của sức sống tuôn trào, núi non là nơi quần tụ bao loài động, thực vật…, chắc hẳn muôn vật trong đêm xuân ấy đang cựa quậy, vươn mình để đón ánh bình minh của một ngày mới (chả phải là “hoa quế rơi” xét cho cùng cũng là biểu hiện một dạng tồn tại của sự sống đó sao?).
Sự hiện hữu của một vật biểu hiện không chỉ ở chỗ chiếm một khoảng không gian mà chủ yếu là ở chỗ nó luôn sinh thành, vận động, phát triển. Chim núi kinh ngạc vì đã quá quen với bóng tối hay đang say sưa đắm mình hoặc yên giấc trong màn đêm yên tĩnh, thâm u. Và sự kinh ngạc ấy đã biến thành những âm thanh chốc chốc vang lên trong khe suối đêm xuân. Dùng hình ảnh chim kinh hoảng bay tán loạn e phá vỡ hoàn toàn không khí yên tĩnh của đêm xuân, có nghĩa là làm mất tính chỉnh thể thẩm mĩ của bài thơ.
Vương Duy có thiên hướng rõ rệt và có biệt tài về việc sử dụng biện pháp nghệ thuật sau. “Hoa lạc”, “nguyệt xuất”, “điểu minh” là động và những động thái đó đã làm nổi bật hơn cái tĩnh. Mở đầu phần phân tích bài Khe chim kêu, hai tác giả Mĩ đã viết : “Im lặng là nốt chính trong thứ âm nhạc đặc biệt của thơ Vương Duy. Giống như bất cứ nốt nhạc nào khác, âm vang cũng như ý nghĩa của nó được xác định bởi những nốt xung quanh.
Bởi vậy, trong một văn cảnh, trạng thái tĩnh lặng là sự yên bình, một sự yên bình có thể nghe được rõ ràng vì trạng thái tĩnh lặng trở nên nổi bật nhờ những âm thanh từ bên ngoài”. Cái im lặng trong thơ Vương Duy không phải là im phăng phắc, lặng như tờ như rnột đầm nước tù đọng mà là trong tĩnh có động.
Điều đó không chỉ làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động mà còn làm toát ra một cách nhẹ nhàng một ý nghĩa triết lí sâu sắc vì trong thực tế, giữa các sự vật đối lập vốn luôn có quan hệ nương tựa lẫn nhau mà tồn tại : không có động làm sao nổi bật được cái tĩnh lặng, không có sáng làm sao nổi bật được cái u tối ?… Điều đó cũng làm cho ở thơ Vương Duy, không chỉ có đặc điểm “thi trung hữu hoạ”, mà còn cả “thi trung hĩru nhạc”!