Ứng dụng và nguồn gốc của thuyết tam tài, ứng dụng và nguồn gốc của thuyết ngũ hành
2 câu trả lời
Mệnh Cung Tam Tài dùng xem xét số phận của người được xem cái cách người đó sẽ được hưởng Thiên thời / Địa lợi / Nhân hòa như thế nào, mức độ ra sao, nhằm giúp quyết đoán Cách cục của 1 lá số. (Ns: Đối với những người mới học Tử Vi có thể dùng như một căn cứ để bổ khuyết cho phép hội sao khi chưa có kinh nghiệm).
Tại Vận trình (Đại / Tiểu Hạn), Tam Tài dùng để xem xét Thời Thế như thế nào, có nên lộ mặt ra (làm ăn, hoạt động...) hay không, hay nên ẩn nhẫn, nên / không nên làm gì trong Đại / Tiểu Hạn này, mức độ thành công / thất bại cao thấp như thế nào, v.v…
Theo địa chi thì cứ trong mỗi TAM HỢP MỆNH CUNG đều có bao hàm các yếu tố THIÊN / ĐỊA / NHÂN. Có nghĩa là mỗi con người khi sinh ra đều phải chịu 3 loại Tác động rất quan trọng trong cuộc sống, đó là:
THIÊN THỜI = Tự giúp mình (độc lập, tự lập) nhưng nắm được thời cơ, điều kiện thuận lợi.
ĐỊA LỢI = Mình giúp người, nhưng chiếm vị thế nên hoàn cảnh, môi trường sẽ giúp lại cho ta.
NHÂN HÒA = Người xung quanh giúp mình, nhưng chưa chắc được hưởng Thiên thời, Địa lợi.
Nắm được Thiên thời là hay nhất (Ns: hay gặp may mắn, gặp thời), cho nên lá số nào có MỆNH CAN là GIÁP / ĐINH / CANH thuộc THIÊN thì thường được thành công và chiếm nhiều trong số lượng danh nhân / Vĩ nhân. Thiên can là QUÝ cũng có khả năng thành công và là Danh / Vĩ nhân, nhưng dễ bị Hao / Phá.
Qua những Tượng ý bên trên, chúng ta có thể đại lược suy ra được Tính cách của từng lá số, ví dụ như các trường hợp sau đây:
- Chẳng hạn Mệnh cung Thiên Can = BÍNH, thì thường được Mẹ / Vợ chu cấp, lo lắng, chăm sóc, v.v… nhưng cũng dễ bị xung khắc.
- TÀI BẠCH cung CAN tọa NHÂM = phải tự lực phấn đấu và phải dựa vào Thiên thời / Thiên ý (có nghĩa là phải đi hỏi Thầy bói khi nào làm ăn được, he he! - Ns: chỗ này tác giả hài hước cho vui vậy thôi, độc giả cần xem lại tính chất của can Nhâm).
- QUAN LỘC cung CAN tọa MẬU = Sự nghiệp của mình có thể dùng để bao bọc, giúp đỡ hay làm lợi cho kẻ khác, cho nên thường dễ bị phí tổn tâm sức mà cái lợi không có là bao.
Việc sử dụng phạm trù âm dương ngũ hành đánh dấu bước phát triển đầu tiên của tư duy khoa học phương Đông nhằm đưa con người thoát khỏi sự khống chế về tư tưởng của các khái niệm thượng đế, quỷ thần truyền thống. Chính vì thế, sự tìm hiểu học thuyết âm dương ngũ hành là một việc cần thiết để lý giải những đặc trưng của triết học phương Đông.
Lý luận về âm dương được viết thành văn lần đầu tiên xuất hiện trong sách "Quốc ngữ". mô tả âm dương đại biểu cho hai dạng vật chất tồn tại phổ biến trong vũ trụ, một dạng có dương tính, tích cực, nhiệt liệt, cứng cỏi và một dạng có âm tính, tiêu cực, lạnh nhạt, nhu nhược... Hai thế lực âm và dương tác động lẫn nhau tạo nên tất cả vũ trụ.
Lão Tử (khoảng thế kỷ V - VI trước CN) cũng đề cập đến khái niệm âm dương. Ông nói: “Trong vạn vật, không có vật nào mà không cõng âm và bồng dương”, ông không những chỉ tìm hiểu quy luật biến hoá âm dương của trời đất mà còn muốn khẳng định trong mỗi sự vật đều chứa đựng thuộc tính mâu thuẫn, đó là âm dương.
Hai vạch (-), (--) là hai phù hiệu cổ xưa nhất của người Trung Quốc, nó bao trùm mọi nguyên lý của vũ trụ, không vật gì không được tạo thành bởi âm dương, không vật gì không được chuyển hóa bởi âm dương biến đổi cho nhau. Các học giả từ thời thượng cổ đã nhận thấy những quy luật vận động của tự nhiên bằng trực quan, cảm tính của mình và ký thác những nhận thức vào hai vạch (--) (-) và tạo nên sức sống cho hai vạch đó. Dịch quan niệm vũ trụ, vạn vật luôn vận động và biến hóa không ngừng, do sự giao cảm của âm dương mà ra, đồng thời coi âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng cùng tồn tại trong một thể thống nhất trong mọi sự vật từ vi mô đến vĩ mô, từ một sự vật cụ thể đến toàn thể vũ trụ.
Từ những quan niệm trên về âm dương, người xưa đã khái quát thành quy luật để khẳng định tính phổ biến của học thuyết này: Trước hết, âm dương là hai mặt đối lập với nhau nhưng lại thống nhất với nhau, cùng tồn tại phổ biến trong các sự vật, hiện tượng của giới tự nhiên. Âm dương đối lập, mâu thuẫn nhau trên nhiều phương diện. Về tính chất: dương thì cứng, nóng, âm thì mềm, lạnh. Về đường đi lối về: dương là thăng (đi lên), âm là giáng (đi xuống), "cái này đi ra thì cái kia đi vào, cái này dịch sang bên trái, thì cái kia dịch sang bên phải".
Âm dương còn đối lập nhau cả ở phương vị nữa. Theo "Nội kinh", khí dương lấy phía Nam làm phương vị, lấy phía Bắc làm nơi tàng thế. Khí âm lấy phía Bắc làm phương vị, lấy phía Nam làm nơi tiềm phục. Nếu suy rộng hơn nữa thì phàm những thuộc tính tương đổi như hoạt động với trầm tĩnh, sáng sủa với đen tối, đông - tây, trong xã hội : quân tử - tiểu nhân, hưng phấn với ức chế, vô hình với hữu hình... chồng - vợ, vua - tôi... Qua các hiện tượng tự không một cái gì không phải là quan hệ đối nhiên, xã hội, các tác giả trong "Kinh Dịch" đã lập của âm dương. Do đó, âm dương tuy là bước đầu phát hiện được những mặt đối lập khái niệm trừu tượng nhưng nó có sẵn cơ sở tồn tại trong các hiện tượng đó và khẳng định vật chất, nó có thể bao quát và phổ cập tất cả vật nào cũng ôm chứa âm dương trong nó: các thuộc tính đối lập của mọi sự vật, âm "vật vật hữu nhất thái cực" (vạn vật, vật nào dương tuỳ đối lập, mâu thuẫn nhau, song cũng có một thái cực, thái cực là âm dương), không tách biệt nhau mà xâm nhập vào nhau, không phải là tuyệt đối mà là tương đối, không phải là đại biểu cố định cho một số sự vật nào đó mà là đại biểu cho sự chuyển biến, đối lập của tất cả các sự vật. Song âm dương không phải là hai mặt tách rời nhau và chỉ có đấu tranh với nhau mà còn thống nhất với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại, "âm là cái dương vẫn tìm, mềm là cái dương vẫn lấn".