Soạn văn bản chuyện tình người con gái nam xương

2 câu trả lời

Câu 1 

Bố cục:

- Phần 1 (từ đầu ... chịu khắp mọi người phỉ nhổ) : nỗi oan và cái chết của Vũ Nương.

- Phần 2 (còn lại) : Vũ Nương ở thủy cung và nỗi oan được giải.

Câu 2 

Nhân vật Vũ Nương trong từng hoàn cảnh :

- Trước khi lấy Trương Sinh : tính thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp.

- Khi về nhà chồng : người vợ thảo hiền, nết na.

- Khi chồng đi lính : con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, người vợ thủy chung.

- Khi bị nghi oan : nàng phân tỏ lòng mình mà không có kết quả, đã tự trẫm mình xuống sông để bảo toàn danh dự.

→ Vũ Nương là người phụ nữ hiền thục, người vợ thủy chung, yêu thương chồng con, là người con dâu hiếu thảo, là người phụ nữ coi trọng phẩm hạnh, danh dự.

Câu 3 

Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất vì :

- Nguyên nhân trực tiếp : Do Trương Sinh nghe lời nói ngây thơ của con trẻ, sinh nghi ngờ, ghen tuông.

- Nguyên nhân sâu xa :

+ Chế độ nam quyền, lễ giáo phong kiến.

+ Cuộc chiến tranh phi nghĩa gây chia ly.

+ Do người chồng đa nghi, hay ghen

+ Do cách cư xử hồ đồ, phũ phàng của Trương Sinh

+ Do cuộc hôn nhân không bình đẳng

→ Thân phận người phụ nữ bị xem nhẹ, khuất sau bóng người đàn ông.

Câu 4 

Truyện dẫn dắt theo trình tự thời gian, các tình tiết được đan cài khéo léo, hé mở đầu truyện lại là nút thắt đẩy lên cao trào truyện. Giọng văn trần thuật mang tính khách quan, cộng với lời văn đối thoại đầy tính bất ngờ đã khắc họa tâm lý, tính cách nhân vật thật sâu sắc, đưa truyện đến kịch tính. Chi tiết "cái bóng" khiến câu chuyện thêm phần kịch tính và là chi tiết thắt nút và mở nút trong câu chuyện

Câu 5 

- Yếu tố kì ảo trong truyện :

+ Chuyện nằm mộng của Phan Lang, Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa.

+ Vũ Nương hiện về ngồi trên kiệu hoa, cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện

`=>` Yếu tố kì ảo tạo ra thế giới huyền ảo hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng. Thể hiện tấm lòng nhân đạo, đó là ước mơ về một thế giới công bằng của nhân dân.

Đây là gồm cả phần tài liệu của lớp mk ạ

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG

A. GIỚI THIỆU CHUNG:

1.Tác giả: Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất) ' -

- Quê ở Hải Dương

- Ông sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng.

- Tuy học rộng tài cao nhưng Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi cáo quan về sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác.

2. Tác phẩm:

   1, Xuất xứ:

- Là truyện thứ 16 trong số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”

- Nguồn gốc: có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “ Vợ chàng Trương”

   2, Hoàn cảnh sáng tác: Thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc - Trịnh tranh giành quyền lực gây ra các cuộc nội chiến kéo dài, gây ra bi kịch cho bao nhiêu gia đình, làm đời sống nhân dân vô cùng cực khổ

   3, Thể loại: Truyện truyền kì

   4, Nhan đề: Truyền kì mạn lục ( Ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được )

   5, Chủ đề: Qua câu chuyện về cụộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác giả Nguyễn Dữ thể hiện niêm thương cảm đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đồng thời ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

   6, Tóm tắt:

Vũ Nương - Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương là người con gái thùy mị, nết na. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà hào phú nhưng không có học, lại có tính đa nghi, hay ghen. Thế rồi, Trương Sinh phải đi lính, xa mẹ già và người vợ đang mang thai ở nhà,VN sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng thường trỏ vào cái bóng trên vách mà bảo rằng đó là cha bé Đản. Còn bà mẹ TS vì thương nhớ con mà sinh bệnh, ốm rồi mất, VN đã ma chay tế lễ như đôi với cha mẹ đẻ của mình. Giặc tan, TS trở về, bé Đản không chịu gọi chàng là cha mà một mực nói cha Đản thường buổi đêm mới đến. TS nghi ngờ vợ không chung thủy nên đã mắng nhiếc, đánh đuổi VN đi. VN không minh oan được nên tự vẫn. Một đêm, thấy bóng TS trên vách, bé Đản gọi là cha, TS tỉnh ngộ nhưng đã quá muộn. Còn VN, khi nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn, đã được các nàng tiên rẽ cho một đường nước xuống thủy cung. Tại đây VN gặp Phan Lang - người cùng làng, VN đã gủi chiếc hoa vàng cho TS. TS lập đàn giải oan trên sông, VN trở về, ngồi trên kiệu hoa nói với chồng mấy lời tạ từ rồi biến mất.

   7, Bố cục: 3 phần

 - Phần 1: Từ đầu đến “như đối với cha mẹ mình'’: Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng.

 - Phần 2: tiếp theo -> “trót đã qua rồi”: Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.

-  Phần 3: Còn lại: Cuộc gặp gỡ giữa Vũ Nương và Phan Lang, Vũ Nương được giải oan

B.ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN

1 NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG

*Giới thiệu khái quát:

- Vũ Nương - Vũ Thị Thiết, quê ờ Nam Xương là người phụ nữ xuất thân từ tầng lóp bình dân, nàng là “con nhà kẻ khó”.

- Vũ Nương có vẻ đẹp hoàn thiện cả về phẩm chất và nhan sắc : “Tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dùng tốt đẹp”. Vũ Nương mang vẻ đẹp chuẩn mực của người phụ nữ theo quan niệm Nho giáo xưa, gồm đủ cả công, dung, ngôn, hạnh.

- Tuy nhiên cuộc đời nàng là một tấn bi kịch.

- Tác giả Nguyễn Dữ đã đặt VN vào nhiều hoàn cảnh khác nhau, trong những mối quan hệ khác nhau để làm nổi bật vẻ đep phẩm chất và cả số phận đau thương của nàng.

1/ Trước khi Trương Sinh đi lính:

Trong cuộc sống vợ chồng, VN hiểu tính tình TS  “ đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”  nên nàng đã cư xử khéo léo “giữ gìn khuôn phép”, chưa tùng để dẫn đến thất hòa, hạnh phúc gia đình được nàng nâng niu vun đắp.        '

2/ Khi tiễn TS ra trận:

Trong buổi tiễn TS đi lính, VN rót chén rượu đầy nồng ấm và dành cho chồng những lời dặn dò thiết tha, tình nghĩa:

+ VN không trông mong vinh hiển mà chỉ mong chồng trở về bình yên: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”'

+ VN thấy trước những khó khăn mà TS phải đối mặt. Nàng bộc lộ nỗi lo lắng và cả niềm cảm thông trước bao gian lao, hiểm nguy mà người chồng sẽ phải trải qua nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường...”

+ Lời nói của VN trong giây phút-chia xa thấm nỗi nhớ nhung khắc khoải, đợi chờ: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa...”. Những lời nói rất mực ân tình, cảm động, nghẹn ngào, thổn thức trong hàng lệ nhớ thương. Không chỉ VN khóc mà “mọi người đêu ứa hai hàng lệ” xót xa.

VN luôn khát khao hạnh phúc gia đình, khát khao sum họp, đoàn tụ. Nàng không muốn xa cách nhưng buộc phải cách xa. Bởi vậy buổi chia tay này, lòng người trĩu nặng “nhuộm mối tình muôn dặm quan san”

3 / Khi Trương Sinh ở nơi chiến trận

a. VN là người vợ thủy chung:

- Suốt thời gian dài xa cách, VN luôn mang trong lòng một nỗi nhớ, niềm thương trĩu nặng

- Nàng không nguôi nhớ đến TS, nỗi nhớ thương cứ khắc khoải dài theo năm tháng: “ Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã dùng những hình ảnh ước lệ để diễn tả dòng chảy của thời gian:

+ Bướm lượn đầy vườn - mùa xuân tươi vui + Mây che kín núi - mùa đông ảm đạm

=> Những hình ảnh ước lệ vừa là cảnh sắc thiên nhiên, vừa là biểu tượng thời gian luôn tác động đến tâm trạng mong nhớ của nàng.

- Dẫu cách xa, cô đơn nhưng nàng luôn giữ gìn đức hạnh, luôn một lòng chung thủy sắt son.

b. VN là người con dâu đảm đang, hiếu thảo:

- Trương Sinh vắng nhà, mọi việc trong gia đình chỉ một mình VN gánh vác, lo liệu

- Khi mẹ chồng lâm bệnh, nàng hết lòng thuốc thang chạy chữa, cầu .trời khấn phật, lấy lời ngọt ngào động viên, an ủi. Nàng là chỗ dựa tinh thần của người mẹ già ốm đau, bệnh nặng.

- Lời trăng trối của bà mẹ là minh chứng khách quan nhất ghi nhận và đánh giá cao công lao đức độ của

VN đối với gia đình nhà chồng. Bà mong cho nàng được hưởng phúc: “Sau này trời xét lòng lành, ban

cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn; xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

- Khi mẹ chồng mất: nàng hết lời thương xót, ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình

- Những hành động, việc làm của VN xuất phát từ tình cảm sâu sắc, chân thành. Nàng là một nàng dâu

hiếu thảo.

c. VN là người mẹ yêu thương con.

- Xa chồng vừa đầy tuần (10 ngày), VN sinh con . Nàng vừa dành cho con tình cảm ấm áp bao dung của người mẹ, lại vừa bù đắp cho con sự thiếu thốn tình cha.

- Thương con, VN thường trỏ vào cái bóng của minh trên vách mà bảo rằng đó là cha bé Đản. Nàng muốn dỗ dành con, mang niềm vui đến cho con trẻ, nàng muốn bù đắp cho con, muốn đứa con nhỏ thơ ngây được sống trong tình thương yêu của mẹ và bên cả bóng hình người cha

4/ Khi bị chồng nghi oan

- Chiến tranh kết thúc, TS trở về, tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với người phụ nữ đức hạnh ấy. Nhưng đau đớn thay, ngày chồng trở về lại là ngày bão tố dữ dội nổi lên trong tổ ấm bé nhỏ, mong manh của nàng. Từ lời con trẻ ngây thơ, Vũ Nương bị chồng nghi ngờ là không chung thủy. Chính trong hoàn cảnh này, vẻ đẹp phẩm chât và số phận đau thương của VN càng được bộc lộ rõ:

a. Lời thoại 1:

- Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng giãi bày thân phận, nàng nói đến tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

 - VN khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết…Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

- Lời nói của VN nghẹn ngào trong dòng nước mắt với bao thiết tha, hi vọng. VN mong chồng hiểu được tấm lòng mình. Nàng cố hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.

b. Lời thoại 2:

- VN nói đến nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao nàng bị đối xử bất công, bị TS mắng nhiếc, đánh đuổi đi; nàng không có quyền được tự bảo vệ; thậm chí không có quyền được bảo vệ bởi lời biện

bạch, thanh minh của họ hàng làng xóm. Hạnh phúc gia đình, cái thú vui “nghi gia nghi thất”, niềm khát khao của cả cuộc đời nàng nay đã tan vỡ, tình nghĩa không còn.

Để thể hiện nỗi đau đớn tuyệt vọng đó, tác giả đã sử dụng 1 loạt hình ảnh ước lệ diễn tả sự chia lìa lứa đôi: “Bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cánh én lìa đàn...”.

Lời nói cùa VN lúc này có cả tiếng than nức nở bởi ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại. Đó là những lời tuyệt vọng đành cam chịu hoàn cảnh, số phận..

  1. Lời thoại 3: (thực chất đây là lời độc thoại)

- Các tình tiết truyện ngày một kịch tính. VN bị dồn đẩy đến bước đường cùng.

- Nàng thất vọng đến tột cùng khi nhân phẩm, danh dự bị chà đạp, hạnh phúc gia đình không thể nào hàn gắn nổi.VN đã chọn cái chết để tự minh oan, tự giãi bày tấm lòng trong trắng. Nàng quyết gieo mình xuống sóng nước Hoàng Giang tự vẫn, giữa lúc đầu xanh tuổi trẻ bởi nàng coi trọng việc giữ gìn nhân phẩm, danh dự

- Nếu cái chết của VN trong truyện cổ là kết quả của sự nóng giận thì cái chết của nàng VN trong CNCGNX là một sự lựa chọn, có chuẩn bị: “Nàng tắm gội chay sạch...”, nàng than với đất trời về thân phận mình, nàng thề. nguyền, khẳng định tấm lòng trong trắng...

- Đương nhiên ở đây có nỗi tuyệt vọng đắng cay nhưng có cả sự chỉ đạo của lí trí bởi hành động tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự sau bao nhiêu cố gắng không thành. VN đã chọn cái chết để minh chứng cho lòng chung thủy.

- Tiếng than như một lời nguyền xin thần sông chúng giám cho nỗi oan khuất và tiết giá sạch trong của nàng.

= > Đó là một Vũ Nương giàu lòng tự trọng, biết coi trọng danh dự và nhân phẩm.

5/ Khi sống dưới thủy cung:

- Vũ Nương vẫn được miêu tả với vẻ đẹp dung nhan. Trong số những mĩ nhân, quần áo thướt tha dự tiệc dưới thủy cung, có cả VN

a. VN nhân hậu, vị tha, bao dung, tình nghĩa :

- Sống ở chốn thủy cung xa hoa, lộng lẫy nhưng VN vẫn một lòng thương nhớ chồng con, nhớ phần mộ tổ tiên, vẫn nặng tình với quê hương. Nghe Phan Lang nhắc đến chồng con, đến phạn mộ tổ tiên nàng ứa nước mắt.

- Gặp lại TS sau bao oan khổ chất chồng, VN không một lời oán hờn, trách móc. Nàng vẫn xung hô : “thiếp – chàng” dịu dàng, đúng mực: “Đa tạ tình chàng...”. Nàng bao dung, độ lượng.

- VN giữ lời hứa với Linh Phi, trọng tình, nghĩa: “Cảm ơn đức của Linh Phi thề sống chết cũng không bỏ...” và nàng nguyện mãi ở lại chốn thủy cung.

b. VN trọng danh dự:

 chốn thủy cung, nàng vẫn khát khao được phục hồi danh dự, khát khao được minh oan. VN nhờ Phan Lang nói hộ với chàng Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến sông: “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi để mang tiếng xấu xa...Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”

c. VN bất hạnh, đau thương ( sự trở về ở màn kết tác phẩm)

VN hiện về uy nghi lộng lẫy với cờ tán võng lọng nhựng vẫn xa cách. Nàng vẫn chỉ là cái bóng mờ nhạt, ẩn hiện loang loáng trên sông cùng lời tạ từ rồi biến mất: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.

- VN bất hạnh bời nàng khao khát được trở về nhưng trần gian này - XHPK bất công - đâu có chỗ đứng cho nàng.

- Khi sương khói giải oan tan đi, chỉ còn lại hiện thực cay đắng: nỗi oan của người phụ nữ ấy không một

đàn tràng nào giải nổi; sự ân hận muộn màng của TS, đàn cầu siêu của tôn giáo không cứu được người phụ nữ.                

- VN không thể trở về, người chết không thể sống lại, hạnh phúc gia đình mãi mãi như chiếc bóng hư ảo.

-> Như vậy, tính bi kịch của tác phẩm vẫn tiềm ẩn trong cái lung linh kì ảo, người đọc vẫn thấy nhói lòng tnrớc bi kịch đau thương của con người - bi kịch của người phụ nữ trong XHPK         

*CHỐT Ý:

Như vậy, dù ở trong hoàn cảnh nào ta vẫn thấy VN hiện lên là một người phụ nữ với vẻ đep hoàn thiện từ dung nhan tới đức hạnh. Nàng đảm đang, hiếu nghĩa, thủy chung, luôn khát khao hạnh phúc gia đình và coi trọng phẩm giá làm người. Nàng mang những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ theo quan niệm Nho giáo, gồm đủ cà công, dung, ngôn, hạnh.

- Tuy nhiên, cuộc đời của người con gái Nam Xương ấy cũng là hình ảnh, thân phận đau thương của những người phụ nữ trong xã hôi phong kiến xưa: Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương (Bảy nổi ba chìm với nước non/ Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn - Bánh trôi nước ); Thúy Kiều, Đạm Tiên - những người con gái hồng nhan bạc mệnh trong truyện Kiều. (Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung)

- Ta như nghe được tiếng lòng của những trái tim đồng điệu: Nguyễn Dữ - Nguyễn Du — Hồ Xuân Hương.. .Ta tự hỏi: đó là những nhân vật trong tác phẩm văn chương hay chính là những con người thực hiện hữu trong cuộc đời. trong xã hội phong kiến mấy trăm năm trước?

-> Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác giả Nguyễn Dữ thể hiện niềm
thương cảm đối với số nhận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đồng thời ca ngợi, 
khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

-> TP mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc

2. NHÂN VẬT TRƯƠNG SINH

*Câu hỏi: Trong câu kết bài thơ: “Lại bài viếng Vũ Thị”, Lê Thánh Tông có viết: “Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng”

Em có đồng ý với tác giả qua lời thơ đó không? Trình bày ý kiến của em?

  • Gợi ý:

Vua Lê Thánh Tông đã nói rất đúng, một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết của VN có bàn tay cùa TS.

- TS con nhà hào phú nhưng không có học, tính cách đa nghi, hay ghen, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Tính cách này ít đảm bảo cho người vợ một cuộc sống hanh phúc

- Khi TS trở về từ chiến trận? tính cách ấy lại càng bộc lộ rõ. Tác giả Nguyễn Dữ đã đặt nhân vật vào một tình huống để từ đó tính cách nhân vật càng được thể hiện:

+ Bé Đản không nhận TS là cha.

+ Lời nói của bé Đản với những dữ kiện đáng ngờ mỗi lúc như đổ thêm dầu vào lửa, thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng TS

- TS đã không đủ tỉnh táo để suy xét về lời của đứa bé, chàng đinh ninh là vợ hư hỏng, mối ngờ vực ấy không có cách gì gỡ ra được. Đó là cách suy nghĩ vội vàng, áp đặt của một con người độc đoán, gia trưởng.

- Từ suy đoán ấy, TS xử sự hồ đồ, vũ phu, thô bạo, cạn tình cạn nghĩa. TS không thẳng thắn hỏi han hoặc chất vấn vợ; cũng không bí mật theo dõi hạnh động của người vợ.

- Trương Sinh bỏ ngoài tai tất cả những lời phân trần của vợ, không tin cả họ hàng làng xóm, TS chỉ biết mắng nhiếc thậm tệ, đánh đuổi VN đi

- Một chuỗi những hành động đó cuả TS đã bịt kín mọi ngả đường giải oan của VN, đẩy nàng vào cái chết oan khiên

-> Lời chê trách của Lê Thánh Tông thật nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu sắc đã kín đáo nêu cho đời một bài học về cách đối nhân, xử thế, cách cư xử trong đạo vợ chồng để giữ gìn tổ ấm.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm