So sánh điểm giống nhau và khác nhau về phần tuyên bố độc lập chủ quyền dân tộc chủ quyền giữa bài thơ Nam Quốc Sơn Hà của (Lý Thường Kiệt) và Tuyên Ngôn Độc Lập của (Hồ Chí Minh)

1 câu trả lời

Suốt dòng lịch sử, Việt Nam đã trải qua biết bao cuộc đấu tranh giữ nước để đắp xây và bảo vệ nền độc lập dân tộc. Quá trình đó đã để lại nhiều áng văn bất hủ khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam. Theo trình tự thời gian, có thể ghi nhận bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.

Vào cuối năm 1076, đại quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết kéo quân vào xâm lược Đại Việt lần thứ hai. Tháng 12/1077, khi quân Tống tiến đến bờ sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt đem thuyền ra đánh. Để cổ vũ, động viên binh sĩ vững tin vào chiến thắng, Lý Thường Kiệt sáng tác bài thơ nổi tiếng:

Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

Bài thơ chỉ vẻn vẹn có 28 chữ, nhưng thật ý nghĩa sâu xa, khẳng định ý chí độc lập dân tộc, tình cảm dân tộc mạnh mẽ. Độc lập dân tộc là ý thức về Tổ quốc Việt Nam, ý thức về sông núi, lãnh thổ nước Nam, ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc của nhân dân Việt Nam, mà đại diện là Hoàng đế nước Nam. Đó là chân lý do "sách trời" đã định. Giặc bên ngoài vào xâm lược là trái với "sách trời", tức là trái với đạo lý, nên nhất định sẽ "bị đánh tơi bời", nhất định chuốc lấy bại vong.

Phải nói thêm rằng, trong Hán văn, từ vương cũng có nghĩa là vua. Vào thời Xuân thu, Chiến quốc, từ vương chỉ những vua nước chư hầu của Thiên tử nhà Chu. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, tự xưng là Tần Thủy Hoàng đế. Các đời sau đều xưng là đế như: Đường đế, Tống đế, Nguyên đế... Trong quan hệ bang giao, các Hoàng đế Trung Hoa chưa một lần công nhận các vua Việt ta là đế, mà chỉ là vương. Nhưng trong ý thức của các vua Việt bao giờ cũng đặt ngang hàng với Bắc đế, chứ không bao giờ chịu nhún mình là vương. Ví như Lý Nam đế, Đinh Tiên Hoàng đế, Đại Hành Hoàng đế… để khẳng định một quyền lực tối cao, độc lập hoàn toàn, không phụ thuộc vào Thiên triều Trung Hoa. Trong nhiều bài dịch "Nam đế cư" thành "vua Nam ở" là chưa sát ý, mà phải dịch là "Nam đế ở" mới đúng tư tưởng của bài thơ.

Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ hai vào thế kỷ thứ XI do Lý Thường Kiệt lãnh đạo là một trong những chiến công chói lọi trong trang sử vàng về bảo vệ và khẳng định chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Bài thơ đã đi vào lịch sử như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam.

Khi cuộc kháng chiến chống Minh ở thế kỷ XV kết thúc thắng lợi hoàn toàn, Đại Việt sạch bóng quân xâm lăng. Năm 1428, thay mặt vua Lê, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Bài đại cáo là bản tổng kết lịch sử đất nước, dân tộc một cách hoàn chỉnh và được hậu thế xưng tụng là "thiên cổ hùng văn".

Một đặc điểm làm nổi bật giá trị bài cáo là ý thức, lòng tự hào về quốc gia, dân tộc đã được khẳng định một cách rõ ràng, đầy đủ nhất:

Xin hay nhất ạ!!

buồn !

Câu hỏi trong lớp Xem thêm