phân tích việt bắc KO CHÉP MẠNG hay từ 43 đến 52

2 câu trả lời

* Bạn tham khảo bài viết dưới đây nhé!

I, Dàn ý tham khảo

1, Mở bài

- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu chung về các câu 43 đến 52

2, Thân bài

a, Bốn câu thơ đầu

- Nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc vào mùa đông và những ngày xuân của người ra đi.

b, Bốn câu thơ cuối

- Bức tranh mùa hè và mùa thu của thiên nhiên và con người Việt Bắc

3, Kết bài

II, Bài văn tham khảo

Tố Hữu đã từng nói :Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. “Việt Bắc” chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Trong bài thơ, tác gải đã tái hiện những ngày tháng kháng chiến gian khổ và sức mạnh hào hùng của quân dân Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua các câu từ 43 đến 52.

Việt Bắc” là một trong những tác phẩm phản ánh cụ thể phong cách thơ của Tố Hữu, đó là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà. Bài thơ được viết vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Toàn bộ đoạn thơ là những câu hỏi da diết, hoài nghi của người ở lại. Và để giải đáp những hoài nghi ấy, người kháng chiến đã nhiều lần khẳng định:

“Ta về, mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc vào mùa đông qua những nét chấm phá tinh tế. Trước hết, cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người ra đi đẹp tựa như một bức họa. Có người đã từng nói “Thơ là họa, là nhạc”. Và có lẽ bức họa về thiên nhiên của Tố Hữu đã phản ánh rõ nét điều đó. Bức họa ấy được Tố Hữu phối màu thật tinh tế, khéo léo: giữa màu xanh u tịch nổi lên màu đỏ tươi của hoa chuối tựa như những bông hoa rực rỡ. Nhờ có sự phối màu này mà cái hoang lạnh, hắt hiu lau xám của miền sơn cước trong ngày đông trở nên thật ấm áp, rực rỡ. Chúng ta cũng từng bắt gặp cách phối màu tương tự trong thơ ca trung đại:

“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

hay

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”

Bức họa về thiên nhiên mùa đông còn được phác họa bởi những đường nét đối lập đầy ấn tượng. Giữa cái hùng vĩ bao la của núi rừng là cái đơn sơ nhỏ bé của hoa chuối. Nhưng không vì thế mà gợi cảm giác yếu đuối, đơn độc. Trái lại bức tranh mùa đông ấy vẫn thật khỏe khoắn, giàu sức sống.

Trong khung cảnh của thiên nhiên mùa đông, con người Việt Bắc  xuất hiện cũng là một điểm nhấn “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Trong thơ Tố Hữu cũng hay miêu tả con người nhưng xuất hiện ở đây là những con người chất phác, cần cù với công việc lao động rất bình dị: làm nương, làm rẫy. Hơn nữa, những con người giản dị ấy lại được xuất hiện trong không gian kì vĩ của đèo cao, vực sâu, xuất hiện lồng lộng, tự tin, kiêu hãnh với tư thế làm chủ, mang tầm vóc của cả một dân tộc, một thời đại hào hùng chứ không hề nhỏ bé yếu ớt như trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:“Lom khom dưới núi tiều vài chú”. Không chỉ dừng lại ở đó, con người Việt Bắc còn được xuất hiện trong một ánh sáng huy hoàng, lộng lẫy. Đó là ánh sáng được phản chiếu bởi ánh sáng của chiếc dao gài lấp lánh dưới ánh chiều nhẹ nhàng. Vì thế không quá khi nói rằng đó chính là ánh sáng của tinh thần lao động, ánh sáng tràn đầy tinh thần khỏe khoắn, lạc quan.

Cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc tiếp tục thay đổi trong những ngày xuân. Trước hết thiên nhiên Việt Bắc như được thay da đổi thịt. Nếu thiên nhiên mùa đông gây ấn tượng với người đọc bởi sắc đỏ rực rỡ của hoa chuối thì sang màu xuân lại là sự trỗi dậy đầy viên mãn của rừng mơ. Tố Hữu đã sử dụng phép đảo trong cụm từ “trắng rừng” vừa như thể hiện cảm xúc ngỡ ngàng, choáng ngợp vừa khiến cho cả không gian núi rừng tràn ngập một sắc trắng tinh khôi trong trẻo và lãng mạn. Đặc biệt động từ “nhớ” càng nhấn mạnh rõ hơn sức sống mãnh liệt cùng sự lan tỏa mạnh mẽ của rừng mơ trong cảm nhận của Tố Hữu. Quang Dũng cũng có cách nói tương tự “Mường Lát hoa về trong  đêm hơi”. Nếu “hoa về” của Quang Dũng đầy sinh động, mang bóng con người thì hoa của Tố Hữu mang sức sống lan tỏa của rừng mơ.

Con người Việt Bắc trong bức tranh mùa xuân cũng được hiện lên không kém phần quyến rũ trong câu thơ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”. Động từ “nhớ” được đặt ở đầu câu thơ như nhấn mạnh cảm xúc nhớ thương da diết của người ra đi dành cho người Việt Bắc. Đó chính là cảm xúc chủ đạo của toàn bộ đoạn thơ. Và cũng từ nỗi nhớ ấy, tác giả gợi nhắc cho người đọc về hình ảnh chiếc nón lá. Đây là hình ảnh thân thuộc gợi nhiều cảm xúc với mỗi người dân Việt Nam. Nhưng dưới ngòi bút của Tố Hữu, nhà thơ lại đi vào đặc tả từng động tác của người đan nón “chuốt từng sợi giang”. Ý thơ tựa như một thước phim ngợi ca từng động tác đan nón tỉ mẩn, khéo léo, chau chuốt chi tiết của người dân Việt Bắc. Và dường như người dân Việt Bắc dồn biết bao tâm huyết, tình yêu thương, sự nâng niu chắt chiu vào từng sản phẩm lao động. Có lẽ vì thế chiếc nón trở thành chiếc nón nghĩa tình, chiếc nón của người yêu thương.

Tóm lại, với bốn câu thơ, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắt với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây.

Hè về, Việt Bắc hiện lên đầy sinh động với những âm thanh, màu sắc và đường nét:

Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình

Vang vẳng trong không gian là tiếng‘ve kêu’ đặc trưng cho mùa hè. Dù Tố Hữu không đi vào miêu tả trực tiếp, cụ thể âm thanh của tiếng ve nhưng người ta vẫn có thể cảm nhận được sự náo nức vang vong, rộn rã làm sống động của một không gian núi rừng vốn tĩnh lặng, quạnh hiu. Điểm thêm trong bức tranh thiên nhiên mùa hè là sắc ‘vàng’ của ‘rừng phách’ đầy rực rỡ, lộng lẫy và kiêu sa. Và sắc vàng ấy không phải lan tỏa một cách chậm rãi, nhàn tản mà nó diễn ra một cách nhanh chóng, mau lẹ Động từ ‘đổ’ là động từ mạnh diễn tả sư chuyển biến đầy bất ngờ, đột ngột qua đó người ta như cảm nhận được chỉ trong chớp mắt sắc vàng đã được lan tỏa một cách diệu kì khắp không gian. Một hình ảnh âm thanh đặt bên cạnh một hình ảnh thị giác càng khiến cho thiên nhiên hiện lên sinh động, gợi cảm và lãng mạn.Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng ả.Đây chính là một bức tranh sơn mài được khắc họa bằng hoài niệm, bức tranh ấy lung linh với ánh sáng, rực rỡ với màu sắc và rộn rã với âm thanh.Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến hiện lên trong miền kí ức của thi nhân: "Nhớ cô em gái hái măng một mình". ‘Hái măng một mình’ mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm yêu mến, trân trọng của tác giả dành cho con người Việt Bắc.

Khép lại bức tranh tứ bình là hình ảnh mùa thu Việt Bắc đầy ngọt ngào, lãng mạn:

Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng. Nhờ ánh trăng của đêm thu, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên thật trong sáng, rạng ngời với tất cả sự huyền bí, đẹp đẽ tựa như cõi thơ, cõi mộng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến cảnh đêm rừng Việt Bắc trong bài ‘Cảnh khuya’ của Hồ Chí Minh: ‘Trăng lồng cộ thụ bóng lồng hoa’ Dường như không khí se lạnh của trời thu đã theo ánh trăng như bao phủ vạn vật, cỏ cây, ngấm vào nỗi nhớ của những con người gắn bó sâu nặng với Việt Bắc. Và ánh trăng ấy cũng chính là ánh trăng của tự do, của hòa bình đem đến sự bình yên, êm ả của quê hương đất nước từ chiến khu Việt Bắc xa xôi khiến cho lòng người không khỏi trở nên bình lặng sau những tháng ngày chiến đấu đầy gian khổ mà hào hùng.Hình ảnh ‘rừng thu trăng rọi hòa bình’ chính là một hình thơ tuyệt đẹp được khắc họa bởi hồn thơ Tố Hữu.

 Trong không gian đêm tĩnh lặng nơi núi rừng cùng mặt trăng tròn vành vạnh trên bầu trời ngân vang đâu đây ‘tiếng hát ân tình thủy chung’. Một tiếng hát xa xăm, không hề rõ câu từ nhưng ta lại có thể cảm nhận được cả cái tình, nỗi niềm ẩn dấu. Nhà thơ sử dụng đại từ ‘ai’ khiến hình ảnh con người hiện lên đầy mơ hồ, mờ ảo. Chỉ với đại từ phiến chỉ ‘ai’ đã gợi ra được cái ngọt ngào, tha, da diết mà không kém phần tinh tế của khúc hát đối đáp trao duyên.Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình và cũng là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Qua đó, nhà thơ như ngầm khẳng định vẻ đẹp con người nơi ‘thủ đô gió ngàn’: một lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với dân tộc.

 Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Vậy là bằng nhưng sợ tơ lòng, bằng nỗi nhớ da diết, mênh mang, người về xuôi đã dệt nên bức tranh bốn mùa rõ rệt với những màu sắc thẩm mĩ, đầy quyến rũ: Thiên nhiên Việt Bắc sống động, trong màu sắc, đường nét, âm thanh, tươi tắn. Nổi bật trên nền thiên nhiên là vẻ đẹp con ngừoi la động với nhiều màu sắc, dáng vẻ. Cảnh và người quấn quýt tạo nên bức tranh tươi đẹp, quyến rũ đến lạ thường. Khúc thơ thấm đẫm tình người, nỗi nhớ da diết thấm vào cảnh vật, trong lòng kẻ ở, người đi. Điệu thơ lục bát với giai điệu ngọt ngào, tình tứ những câu giao duyên “mình – ta” thuở nào. Hình ảnh thơ  trong sáng, gợi cảm. Chữ thơ nhiều sáng tạo tinh tếm tài hoa. Tất cả tạo nên dư âm sâu lắng, sự lôi cuốn và sức sống lâu bên trong lòng người đọc.

Tố Hữu được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mạng. Thơ ông là vũ khí để tuyên truyền, cổ động tinh thần chiến đấu cũng như nêu cao tình yêu và tinh thần yêu nước mãnh liệt. Mặc dù thơ ông viết về chính trị nhưng không hề khô khan, ngược lại rất tình cảm. Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, tác giả muốn gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến. Bài thơ được viết theo thể đối đáp càng gợi lên sự bình dị, ấm áp và thân quen đến lạ lùng.

      Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể lục bát tạo nên âm hưởng nhẹ nhàng, trầm bổng mà lắng sâu trong lòng người đọc. Đây chính là một sự khéo léo tạo nên thành công của bài thơ chính trị mà trữ tình, dạt dào cảm xúc này.

     Tác giả mở đầu bằng sự nuối tiếc, quyến luyến, bịn rịn của người ở lại và kẻ ra đi trong một khung cảnh tràn đầy nhớ thương:

Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Mình về mình có nhớ không

Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn

      Những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa những người chiến sỹ cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả đặt đại từ “ta” và “mình” thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy. Tác giả đã đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy” – quãng thời gian rất dài gắn liền với cuộc chiến tranh ác liệt của nhân dân ta với thực dân Pháp. Đó cũng chính là quãng thời gian tình quân và dân thiết tha, nặng tình nặng nghĩa. Lòng người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.

     Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn không muốn rời chân bước đi:

Tiếng ai tha thiết bên cồn

Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi

Áo chàm đưa buổi phân li

Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay

      Tâm sự của người ở lại khiến cho người ra đi không đành lòng bước đi. Tiếng nói đó lại làm chực trào nhớ thương và những kỉ niệm khó quên. Tâm trạng ấy được gói gọn trong từ “bâng khuâng” như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi. Thật khó để có thể hiểu được cảm xúc của người trong cuộc lúc này. Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

      "Ta" và "mình" dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tách rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng "mặn mà đinh ninh". Hai từ "đinh ninh" như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

       Khi nhớ về núi rừng Việt Bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất:

"Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

      Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi nơi núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

      Điệp từ nhớ được lặp đi lặp lại rất nhiều lần khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt.

     Tác giả không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc, quan trọng hơn nữa là ông nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng

Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây

Núi giăng thành lũy sắt dày

Rừng che bộ đội rừng vây quân thù

     Với giọng điệu không còn dìu dặt, tha thiết đặc trưng của thể lục bát nữa mà đã chuyển sang sự hào hùng, vang dội khi kể về những trận chiến giữa núi rừng Việt Bắc. Đọc những vần thơ này, chúng ta nhận ra được hào khí Đông A thật mãnh mẽ và quyết liệt, dữ dội trong lòng của tác giả. Những năm tháng đó, những cuộc chiến đó vẫn chưa hề xóa nhòa trong lòng quân và dân.

      Thực vậy, bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu với giọng điệu thiết tha, da diết và hào hùng, đanh thép đã gợi mở về tình quân dân đậm đà thắm thiết và tinh thần yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đọc bài thơ chúng ta thêm ngưỡng mộ và khâm phục sự tài tình của Tố Hữu.

Tham khảo nhé.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm