Phân tích vẻ đẹp dòng sông Hương trong tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông (Hoàng Phủ Ngọc Tường
1 câu trả lời
“Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình”
(Tố Hữu)
Chẳng biết tự bao giờ sông Hương núi ngự đã trở thành nguồn cảm hứng dạt dào của nhiều văn nhân, nghệ sĩ. Nằm trong dòng cảm xúc ấy, nhà văn chuyên về bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành một bài bút kí tài hoa, sang trọng “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” để khắc họa vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Hương giang. Bằng ngôn từ mĩ lệ, giàu sức biểu đạt, cùng trí tưởng tượng phong phú và sự hiểu biết uyên bác về địa lí, lịch sử, văn hóa, văn học… Nhà văn đã tái hiện thành công vẻ đẹp của sông Hương như một biểu tượng cho văn hóa và tâm hồn con người xứ Huế.
Nếu nhắc tới thủ đô Paris hoa lệ, người ta không thể không nhắc tới dòng sông Xen nổi tiếng đã đi vào biết bao trang văn, trang thơ đặc sắc của nhân loại, là để tài của những tác phẩm điện ảnh kinh điển thế giới thì nhắc đến cố đô Huế, người ta cũng không thể quên dòng Hương giang chảy lững lờ giữa lòng thành phố. Nói về dòng sông này, câu mở đầu đoạn trích bài bút kí Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. – một nhận xét mang đậm tính chủ quan của nhà văn không chỉ thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả khi đặt con sông Hương ngang hàng với vẻ đẹp những dòng sông nổi tiếng trên thế giới.
Ngược dòng Hương giang, cùng tác giả trở về thượng nguồn của nó, ta ngạc nhiên thú vị trước những nét tính cách phong phú đến khó hiểu của dòng sông. Sông Hương ở thượng nguồn được nhà văn miêu tả với một sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng có lúc lại dịu dàng say đắm. Cảnh sông ở đây được tác giả khắc họa đầy ấn tượng “nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Hình ảnh so sánh với bản trường ca kết hợp với tính từ đặc tả “rầm rộ”. “mãnh liệt” cùng với động từ mạnh “cuộn xoáy”, nhà văn đã thể hiện thật rõ sức mạnh hoang dại của dòng sông – một vẻ đẹp vốn có của thiên nhiên, của đại ngàn trường sơn hùng vĩ. Chi tiết này đã gây ấn tượng manh với bạn đọc bởi nhà văn đã cho bạn đọc được khám phá tính cách mới mẻ của sông Hương mà nếu chỉ ngắm khuôn mặt kinh thành của nó sẽ không nhận ra được: đó là sức mạnh hùng vĩ, man dại của đời sống.
Bên cạnh vẻ đẹp mãnh liệt đó Hương giang vẫn giữ được nét dịu dàng, duyên dáng của dòng sông ở xứ mơ màng “dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hoàng Phủ Ngọc Tường có đôi bàn tay của người họa sĩ tài hòa khi ông phối hai màu xanh – đỏ trong bức tranh của sông Hương. Vậy là trong cái lạnh lẽo, âm u đã xuất hiện ngọn lửa ấm nóng của hoa đỗ quyên rừng khiến con sông rực rỡ, lung linh, tỏa sáng.
Đến giữa lòng trường Sơn sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di gan phóng khoáng và man dại…trong sáng…gan dạ”. Sông Hương được nhân hóa như một cô gái di gan – cô gái của một bộ tộc người ưa sống tự do, phóng khoáng, mạnh mẽ, khiến dòng sông không còn là sinh vật vô tri, vô giác mà trở thành một sinh thể đầy cá tính, mạnh mẽ, quyến rũ, mê say.
Khi ra khỏi rừng “sông Hương nhanh chóng mang một màu sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Từ “cô gái”, sông Hương được nâng lên thành người mẹ gợi ra sự đằm thắm phì nhiêu, màu mỡ của đồng bằng châu thổ. Tác giả tỏ ra là người am hiểu dòng sông Hương khi ông nhắc nhở “nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành của nó tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương…núi Kim Phụng”. Từ lời nhắc nhở của nhà văn ta nhận thấy: vậy là có một dòng sông ở phía bên kia cửa rừng và một dòng sông ở kinh thành. Sông Hương trở nên sâu sắc, kín đáo và giàu tâm trạng biết bao.
Trong hành trình xuôi về đồng bằng, nhà văn đã nhận ra sự thay đổi về tính cách của sông Hương. Bởi lẽ, trước khi trở thành người tình chung thủy của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Xuôi theo dòng Hương giang về vùng đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế ta bắt gặp nét đẹp khác của dòng sông “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại” – hình tượng người con gái đẹp gợi mở cho người đọc về vẻ đẹp mới mẻ của dòng sông hứa hẹn nhiều điều thú vị, hấp dẫn và đem đến cho ta một liên tưởng đẹp đẽ đến một huyền thoại cổ tích: nàng công chúa ngủ trong rừng. Sự hiểu biết về địa lý cùng năng lực quan sát tinh tế nhà văn gợi ra thật đẹp dáng hình của sông Hương “chuyển dòng một cách liên tục…uốn mình theo những đường cong thật mềm…” Những từ “liên tục”, “đột ngột” là những trạng từ miêu tả sự đổi dòng đầy bất ngờ thể hiện sự trăn trở của dòng sông khi chưa gặp người tình cố đô. Sông Hương khi chảy xuôi về đồng bằng vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn. Nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách. Nếu cái sừng sững của núi đồi gợi ra sự hùng vĩ, mạnh mẽ thì sông Hương lại trở nên hùng vĩ, duyên dáng, mỹ miều, đặc biệt với sắc nước của dòng sông “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Màu tím ấy phải chăng là màu tím của:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”
(Thanh Hải)
Hay màu hoa lục bình trong thơ của Lê Anh Xuân:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
Có lẽ màu “tím” trong chữ “chiều tím” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là tím Huế, sắc màu đặc trưng của không gian Huế “mà chẳng nơi nào có được”. Đặc biệt đoạn sông Hương chảy vào ngoại vi thành phố Huế được nhà văn diễn tả “giữa đám quần sơn lô xô ấy….bát ngát tiếng gà”. Có lẽ, qua tất cả chặng đường đi của mình, đây là lúc duy nhất sông Hương mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u, triết lí – một vẻ đẹp đặc trưng cho miền đất cố đô.
Tài văn chương của tác giả lại được dịp biểu lộ thăng hoa. Ta có thể ví đoạn văn giống như một tấm đá hoa cương đủ khắc tên nhà văn làm vẻ vang một đời nghệ sĩ bởi sự khắc họa tài hoa của ông về vẻ đẹp và tính cách của sông Hương. Ở đoạn văn này người ta thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ là một nhà văn mà còn là một nhà hội họa với đôi bàn tay nghệ sĩ tài hoa khi vẽ đường uốn lượn mềm mại duyên dáng của dòng sông. Sông Hương khi chảy vào thành phố Huế không còn băn khoăn, trăn trở “đổi dòng, uốn mình” liên tục nữa mà “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây Nam, Đông Bắc”. Yên tâm bởi nó đã nhìn thấy cây cầu trắng của thành phố. Như vậy dưới ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương lúc này đã là một cô gái có tâm hồn, ý thức tìm được chính mình, được ôm ấp trong lòng một cố đô cổ kính. Và nổi bật trên nền xanh của dòng Hương giang là “chiếc cầu trắng của tác phẩm in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nói về vẻ đẹp của cầu Tràng Tiền xứ Huế, nhà thơ Nguyễn Bính đã đánh rơi hai câu thơ lục bát tuyệt hay:
“Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung Nga buông hờ”
Nếu nhà thơ Nguyễn Bính so sánh cầu Tràng Tiền như chiếc lược ngà thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại so sánh với vành trăng non – một hình ảnh so sánh độc đáo gợi ra vấn đề tinh khôi, duyên dáng của cầu Tràng Tiền. Khi gặp người yêu, có cô gái nào lại không làm dáng, làm duyên, sông Hương cũng vậy “uốn một cách cũng rất nhẹ…như một tiếng vang không nói ra lời của tình yêu”. Cách so sánh trong diễn đạt tinh tế của tác giả về vẻ đẹp tình tứ mà kín đáo của cô gái Huế. Sông Hương mang đậm vẻ đẹp tâm hồn con người xứ Huế. Và không giống như những con sông khác trên thế giới: Sông xen của Pan, sông Đa-nuýp của Bu-Đan-phét, sông Hương nằm giữa lòng tác phẩm yêu quý của mình…Nhà căn đã so sánh sông Hương với những con sông nổi tiếng trên thế giới không chỉ thể hiện sự uyên bác mà còn thể hiện niềm kiêu hãnh tự hào của tác giả về con sông quê hương.
Chất âm nhạc của dòng sông được thể hiện ở nhịp điệu êm đềm của bài bút kí bởi những câu văn dài nối tiếp miên man, bởi lưu tốc, gọng nước của sông Hương “dòng sông Hương khi đi qua tác phẩm đã trôi đi thật chậm thực cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh”. Để tô đậm cái dáng vẻ lững lờ của Hương giang, nhà văn đã liên tưởng đến dòng sông Nê va của tác phẩm Lê-nin-grat và nhắc đến tư tưởng triết học của Hê-ra-ha-gli: “2000 năm trước trôi đi quá nhanh” nhưng sông Hương thì khác, dòng sông êm đềm mà nhà văn gọi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Thu Bồn đã viết hai câu thơ đặc sắc:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu"
Hình như nó đang hòa điệu tâm hồn với Huế tôn nên vẻ đẹp thơ mộng của cố đô. Đứng trước sông Hương, người ta không chỉ cảm nhận trước một bức tranh sông nước diễm lệ mà còn đứng trước một biểu tượng của Huế, tâm hồn Huế, văn hóa Huế. Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Đối với nhà văn, âm nhạc cổ điển Huế phải được trình diễn trong một khoang thuyền nào đó, giữa những tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya mới chinh phục lòng người. Bởi tác giả hình dung toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên không gian mặt nước.
Hay nói một cách khác, dòng sông đã sinh thành nên toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế góp phần làm nên một xứ Huế “trong sáng và thư thái” (UNESCO). Hoàng Phủ Ngọc Tường suy luận rằng chính không gian âm nhạc của sông Hương và cũng chính hình tượng người tài nữ đánh đàn đầy nữ tính ấy đã làm nên bản dàn đầy tâm trạng đi suốt cuộc đời Kiều. Bởi Nguyễn Du đã lấy cảm hứng từ bản “Tứ đại cảnh” và thi hào bao lần đã từng lênh đênh trên quãng sông này. Nhà văn còn cho rằng có một dòng thi ca về sông Hương nhưng mỗi nhà thơ yêu sông Hương bằng một tình yêu riêng và thể hiện một cách riêng. Tác giả rất thú vị trước điều đó “có một dòng thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ từ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Từ lời nhận xét của nhà văn, ta thấy sông Hương bỗng trở nên lấp lánh, lung linh với vẻ đẹp đa chiều, với nhiều màu sắc cung bậc như sông Hương tinh tế của Tản Đà, sông Hương khí phách của Cao Bá Quát, sông Hương dịu dàng của Thu Bồn…Mặc dù mỗi thi sĩ đều khám phá những nét riêng nhưng qua đó ta cảm nhận được vẻ đẹp của sông Hương không chỉ ở phương diện tự nhiên của khoa học đại lý mà còn là dòng sông của văn hóa, thi ca.
Dòng sông Hương gắn với những chiến tích hào hùng của dân tộc trong cuộc trường chinh dựng cõi mở nước. Tựa như cái đòn gánh gánh hai đầu đất nước. Mọi sức nặng của bất kỳ sự kiện trọng đại nào đều đổ xuống đôi vai kinh thành Huế và sông Hương. Nó là dòng sông của thời gian ngân vang, của lịch sử thi viết giữa màu cỏ viết. Đó là dòng sông thiêng liêng của tổ quốc, là dòng Linh Giang trong sử sách xưa, đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới đất Việt, từng soi bóng xuống kinh thành Phú Xuân, từng chứng kiến nhũng trung chuyển lớn lao của cách mạng tháng Tám, của chiến dịch Mậu Thân 1968. Đó là dòng sông lịch sử.
Bài kí khép lại bằng cách lí giải cái tên của dòng sông “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Một câu hỏi nhưng chính thiên bút ký này là một câu trả lời đầy đủ nhất. Cho nên câu hỏi này là một cách để nhà văn lưu ý độc giả về cái tên đẹp của dòng sông và bộc lộ cảm xúc đầy ngạc nhiên thú vị của mình trước cái duyên thật đẹp giữa Huế và Hương giang. “Hương” là hoa hai bên bờ sông ở thượng nguồn rụng xuống tỏa hương như trong huyền thoại hay người hai bên bờ sông đã nấu nước thơm đổ xuống dòng sông, muốn đem cái đẹp và tiếng thơm để xây đắp văn hóa và lịch sử cố đô. Đọc tác phẩm ta thấm thía ý nghĩa thâm trầm và ấm cúng trong một khúc đoạn trường ca của Nguyễn Khoa Điềm:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền, vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
“Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút kí tài hoa dào dạt cảm xúc và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn của đoạn văn là những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp từ một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế tài hoa. Tác phẩm đã lôi cuốn và đọng lại trong lòng độc giả bởi một tình yêu say đắm, chân thành của nhà văn đối với Huế mộng mơ và vẻ đẹp của sông Hương kiều diễm.