Phân tích từ câu 21 đến câu 32 của bài việt bắc

1 câu trả lời

** Em tham khảo dàn ý dưới đây nhé **

A. Mở bài

  - Giới thiệu tác giả, tác phẩm

  - Vị trí, khái quát nội dung đoạn trích ( câu 21 đến câu 32) 

  - Dẫn dắt vấn đề

B. Thân bài

 1. Tình thủy chung son sắt của đồng bào với cán bộ về xuôi.

   - Lối xưng hô "ta - mình" đậm đà màu sắc ca dao, dân ca đầy xúc cảm yêu thương.

   - Cặp đại từ "ta - mình" hoán đổi vị trí thật linh hoạt, khéo léo tự nhiên.

   - Ta – mình, mình – ta cứ xoắn xuýt thật nồng nàn, máu thịt giữa kẻ ở người đi, tuy hai mà một.

    - Câu thơ vang lên như một lời thề son sắt, thủy chung. Câu thơ tám chữ mà có đến sáu chữ cùng khẳng định nghĩa tình.

    - Nghĩa tình Cách mạng còn được cán bộ miền xuôi khẳng định qua hình ảnh so sánh đậm màu sắc dân gian : Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.

  2. Nỗi nhớ da diết của người về xuôi.

      -  Lối kết cấu đối đáp giữa kẻ, người đi thật tự nhiên, khéo léo.

      - Từ "nhớ" đã điệp lại bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu.

      - Nỗi nhớ cứ lơ lửng ám ảnh mãi tâm trí người đi đến mức không thể kìm nèn được. 

      - Lời thơ buông ra với ngữ điệu hết sức đặc biệt, nửa như nghi vấn, nửa như cảm thán tạo ấn tượng, ám ảnh người đọc.

      - Bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình.

        + Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi.

        + Có những chiều tỏa nắng trên nương.

        + Hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh.

     - Cách nói "người thương" khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương.

      - Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi.

C. Kết bài

    - Đánh gia chung

    - Cảm nghĩ của bản thân.

** Bài viết tham khảo

       Nhà văn Macxen Prut cho rằng : Thế giới được tạo lập không phải một lần mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo thì lại một lần thế giới được tạo lập. Một người nghệ sĩ độc đáo là một người có phẩm chất độc đáo, tài năng độc đáo. Mỗi lần người nghệ sĩ ấy xuất hiện là họ lại mang đến cho chúng một thế giới riêng, một cách cảm nhận thế giới và con người. Là nhà thơ của lí tưởng và cộng sản, Tố Hữu xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam với phong cách nghệ thuật độc đáo. Thơ của ông mang tính trữ tình, chính trị, đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, thấm nhuần tính dân tộc. Tiêu biểu cho giọng thơ rất riêng và độc đáo của Tố Hữu phải kể đến bài thơ Việt Bắc – bài thơ kết tinh tình cảm của con người Việt Nam mà bao trùm là tình yêu nước. 

      Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954 , hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại , miền Bắc được giải phóng và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.  Tháng 10/ 1954, Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, những người kháng chiến (trong đó có Tố Hữu) từ căn cứ miền núi về miền xuôi chia tay Việt Bắc, chia tay khu căn cứ Cách mạng trong kháng chiến.Nhân sự kiện có tính lịch sử này Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Bài thơ “Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

      Ở thời khắc chia tay lịch sử, trong lòng đồng bào ở lại dấy lên mỗi băn khoăn lớn là cán bộ miền xuôi có nhớ không? Ngữ điệu hỏi “có nhớ” xuyên suốt toàn lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Hiểu thấu mối băn khoăn của đồng bào, cán bộ về xuôi đã khẳng định nghĩa tình thủy chung, son sắt:

                       "Ta với mình, mình với ta

                  Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh

                         Mình đi mình lại nhớ mình

             Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu"

Lối xưng hô  "ta – mình" đậm đà màu sắc ca dao, dân ca đầy xúc cảm yêu thương. Cặp đại từ "ta – mình" hoán đổi vị trí thật linh hoạt, khéo léo tự nhiên. Ta – mình, mình – ta cứ xoắn xuýt thật nồng nàn, máu thịt giữa kẻ ở người đi, tuy hai mà một. Nếu ở câu thơ trên, nghĩa tình khăng khít giữa đồng bào cán bộ được thể hiện kín đáo qua nghệ thuật hoán đổi cặp đại từ "ta – mình" thì đến câu thơ "lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh" lại được lặp lại một cách rõ ràng. Câu thơ vang lên như một lời thề son sắt, thủy chung. Câu thơ tám chữ mà có đến sáu chữ cùng khẳng định nghĩa tình. Là trước sau như một, không thay đổi theo thời gian, mặn mà, nồng nàn, thắm thiết, sâu đậm. Dù cuộc đời có thăng trầm đảo điên, đổi trắng thay đen, lòng ta vẫn không thay đổi. "Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh"  đẹp biết bao nghĩa tình bất biến giữa dòng đời vạn biến. Tình nghĩa cách mạng giữa cán bộ kháng chiến với đồng bào miền Bắc đã nhập sâu vào truyền thống thủy chung cao đẹp của người Việt.

    Sự đồng điệu là một nét son đẹp giữa đồng bào cán bộ. Điều đó được thể hiện sâu sắc trong cặp đối đáp. Đồng bào ở lại hỏi : Mình đi mình có nhớ mình, cán bộ đáp Mình đi mình lại nhớ mình. Cán bộ về xuôi chẳng những sẽ mãi nhớ đồng bào ở lại mà còn chẳng bao giờ quên quá khứ, không đánh mất chính mình. Nếu câu thơ được viết theo lối thông thường Ta đi ta lại nhớ mình thì chắc chắn không có lời đáp lại trọn vẹn, không có sự thú vị như đã thấy. 

     Nghĩa tình Cách mạng con được cán bộ miên xuôi khẳng định qua hình ảnh so sánh đậm màu sắc dân gian : Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu. Nước trong nguồn bao lao, vô tận, không bao giờ vơi cạn. Người Việt xưa dùng hình ảnh nước trong nguồn làm biểu tượng tình mẫu tử thiêng liêng :

            "Công cha như núi Thái Sơn

       Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra"

     Đến Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng hình ảnh nước trong nguồn để khẳng định nghĩa tình giữa cán bộ, đồng bào miền ngược với miền xuôi . Khó có cáh nói nào về tình nghĩa Cách mạng thiêng liêng hơn cách nói của Tố Hữu. Cặp từ qua lại  "bao nhiêu, bấy nhiêu" càng khơi sâu hơn cái vô cùng, vô tận của tình nghĩa sâu nặng.

    Bài thơ được triển khai theo lối kết cấu đối đáp giữa kẻ ở người đi. Trong những lời đối đáp của người đi, đã có biết bào nhiêu tình cảm nhớ nhung, da diết ; và một trong những nỗi nhớ ấy phải có nỗi nhớ như nhớ người yêu :

      "Nhớ gì như nhớ người yêu

  Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

      Nhớ từng bản khói cùng sương

  Sớm khuya bếp lửa người thương đi về

       Nhớ từng rừng nứa bờ tre

  Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

      Ta đi ta nhớ những ngày

  Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi…"

        Tất cả bỗng thức dậy và trôi nảy trong mạch cảm xúc dào dạt tưởng chừng không bao giờ vơi cạn. Kết nối những kỉ niệm, kí ức ấy chính là sợi nhớ, sợi thương. Chỉ riêng đoạn thơ 8 câu này, từ  "nhớ " đã điệp lại bốn lần trong lòng người đi, nỗi nhớ này chưa qua thì nỗi nhớ khác đã ùa về như lớp sóng miên man không dịu. Mỗi lần niềm nhớ rung lên là bao kỉ niệm ùa về, bao nghĩa tình được bồi đắp. Có thể nói nhớ thương đã trở thành điệp khúc, lực hấp dẫn để hút về tất cả kí ức hoài niệm dấu yêu.

       Nỗi nhớ Việt Bắc được cảm nhận như nỗi nhớ thương người yêu. Có khi ngẩn ngơ, ngơ ngẩn ; có khi bồn chồn, bối rối, bổi hổi, bồi hồi. Khi da diết khắc khoải, khi lại đau đáu thăm thẳm. Nỗi nhớ khi chia xa Việt Bắc phải chăng hàm chứa mọi cung bậc cảm xúc ấy. Một nỗi nhớ nồng nàn, đằm thắm, tha thiết. Với hình ảnh so sánh này, Tố Hữu thực sự là một tình nhân đắm đuối trước Việt Bắc, trước nhân dân đất nước mình. Cùng với những câu thơ Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng, Áo chàm đưa buổi phân lí – Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay, tứ thơ Nhớ gì như nhớ người yêu  đã đưa thi phẩm Việt Bắc trở thành khúc tình ca bậc nhất trong thơ ca Cách mạng. 

     Chảy về trong nỗi nhớ niềm thương là cảnh sắc Việt Bắc thơ mộng hiền hòa. Những câu thơ như một bức họa gợi cảm về cảnh rừng Việt Bắc thơ mộng, hữu tình. Có đêm trăng huyền ảo, mảnh trăng lấp ló nơi đầu núi, có những chiều tỏa nắng trên nương và hình ảnh những nếp nhà, bản làng thấp thoáng trong sương khói bồng bềnh. Không miêu tả chi tiết, Tố Hữu chỉ chấm phá, khơi gợi. Tuy nhiên, với những người trong cuộc, chỉ chừng ấy thôi cũng đủ bồi hồi, xao xuyến biết bao. Hòa cùng vẻ đẹp bình dị và thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc là hình ảnh con người Việt Bắc rất đỗi thân thương : Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. Hình ảnh thơ gợi tả tinh tế sự tần tảo, đảm đang, chịu thương, chịu khó của những cô gái nuôi quân nơi chiến khu Việt Bắc. Không quản khó nhọc gian nan, những thiếu nữ Việt Bắc vẫn sớm hôm cần mẫn nuôi dấu cán bộ. Hình ảnh bếp lửa gợi những buổi đoàn tụ ấm cùng và nghĩa tình quân dân nồng đượm. Tình quân dân, cách mạng mà mang không khí ấm áp, yêu thương như tình cảm gia đình. Cách nói « người thương » khéo léo, nhiều sức gợi, chứa chan tình cảm dịu dàng mà nồng nàn, yêu thương. Hẳn trong trái tim nhà thơ đã để thương một người con gái Việt Bắc biết hi sinh vì Cách mạng.

      Kết thúc khổ thơ , tình cảm lại toả ra tràn ngập cả núi  rừng Việt Bác. Những kỷ niệm chung và riêng đan xen nhau, lần lượt hiện ra trong tưởng tượng của người đi:

                "Nhớ từng rừng nứa bờ tre

            Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

                 Ta đi ta nhớ những ngày

            Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi" 

    Những đồi tre bát ngát, những dòng suối mát trong, con sông hiền hòa, tất cả cứ in sâu trong nỗi nhớ người về. Nhắc đến dòng sông, đồi núi, rừng nứa, bờ tre là dưng dưng bao kỉ niệm, đong đầy bao yêu thương. Những cái tên : Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê có lẽ không đơn thuần chỉ là những địa danh mà còn ẩn dấu bao kỉ niệm cảm xúc. Những gắn bó gian khổ, ngọt bùi đã trở thành những kỷ niệm da diết trong trái tim người đi. Khó có thể quên được. Biết bao những xúc động bồi hồi cùng những ngọt ngào dưng dưng dồn chứa trong mấy chữ"  đắng cay, ngọt bùi" cùng dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Người đi muốn nhắn gửi với người ở lại rằng người về xuôi sẽ không quên bất cứ một kỉ niệm, một kí ức nào.

         Có thể thấy, bài thơ đã thể hiện rõ nỗi nhớ da diết của người đi Việt Bắc, đó là tấm lòng chân tình của cán bộ kháng chiến với Việt Bắc Bằng thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển ; hình ảnh trong sáng giản dị, gợi cảm, đoạn thơ đã tạo nên sức hấp dẫn đối với độc giả. Đọc đoạn thơ, ta thấy bịn rịn một tấm lòng nhớ thương da diết vô hạn.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm