Phân tích khổ đầu cũa bài thơ tây tiến. Sông mà xa rồi tây tiến ơi....mai châu mùa em thơm nếp xôi

2 câu trả lời

* Bạn tham khảo bài viết dưới đây nhé!

I, Dàn ý tham khảo

1, Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu chung về khổ thơ đầu

2, Thân bài

* Nỗi nhờ về thiên nhiên và con người Tây Tiến

a, Hai câu thơ đầu

- Hình ảnh "sông Mã"

=> Nhớ về địa danh đã gắn bó với người lính Tây Tiến

- "nhớ chơi vơi"

b, Hai câu thơ tiếp: 

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

- Nỗi nhớ mênh mang của nhà thơ

c, Hình ảnh người lính Tây Tiến "đoàn quân mỏi"

3, Kết bài

- Khẳng định giá trị của khổ thơ cũng như bài thơ

- Tình cảm của em dành cho tác phẩm

II, Bài văn tham khảo

Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những người anh hùng vô danh, nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc họa một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kì lịch sử. Và “Tây Tiến” là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực dân  Pháp của dân tộc. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu của bài: "Sông mà xa rồi tây tiến ơi....mai châu mùa em thơm nếp xôi".

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt –Lào, đồng thời đánh tiêu hao lực lượng địch. Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những hoàn cảnh gian khổ nhưng họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Quang Dũng là đại đội trưởng ở đơn vị Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, ông viết bài thơ “Tây Tiến”.

Mạch cảm xúc bao trùm bài thơ cũng như đoạn thơ là nỗi nhớ. Mở đầu bài thơ, tác giả gợi mở về những địa danh khởi nguồn cho những cuộc hành quân của người lính Tây Tiến: “Sông Mã  xa rồi Tây Tiến ơi”. Hình ảnh “sông Mã” có hai cách lí giải. Nó có thể là dòng sông chảy xiết như ngựa phi, nó có thể là sông mẹ bởi từ Hán Việt “mã” có nghĩa là mẹ. Nhưng dù hiểu theo cách nào nó vẫn là con sông hùng vĩ, hoang sơ, lắm thác nhiều gềnh. Thế nhưng, đối với Quang Dũng, dòng sông ấy không đơn thuần chỉ là địa danh mà nó còn là dòng sông của âm vang lịch sử, nó như ôm trọn từng bước đường, là chứng nhân cho những vui buồn của người lính Tây Tiến. Gắn với địa danh sông Mã là hai từ “xa rồi”. Cảm giác như hai thanh bằng ấy đã làm cho câu thơ trùng xuống trong sự tiếc nuối, nhớ thương. Và để rồi từ nỗi nhớ da diết ấy cất lên thành tiếng gọi tha thiết “Tây Tiến ơi”. Tây Tiến không chỉ là tên của một binh đoàn mà Tây Tiến dường như là một người đồng hành, gắn bó, thân thương trìu mến với người lính. Cùng với tiếng gọi tha thiết là cảm xúc “nhớ chơi vơi” của nhà thơ: “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”. Điệp từ “nhớ” được lặp lại hai lần, đặt ở đầu hai vế của câu thơ vừa tạo tính nhạc cho lời thơ vừa diễn tả nỗi nhớ da diết, cháy bỏng về rừng núi, không gian đã từng gắn bó của nhà thơ. Cũng có rất nhiều nhà thơ viết hay về nỗi nhớ. Ta có thể bắt gặp nỗi nhớ mãnh liệt của Xuân Diệu: “Anh nhớ hình, anh nhớ ảnh, anh nhớ em/ Anh nhớ lắm, em ơi” hay nỗi nhớ nồng nàn trong mọi không gian, thời gian của Xuân Quỳnh “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Nhưng nỗi nhớ của Quang Dũng độc đáo hơn cả, nhà thơ đã sử dụng từ láy “chơi vơi” kết hợp với thanh bằng nhằm tạo cảm xúc về nỗi nhớ đặc biệt. Nỗi nhớ bảng lảng ẩn hiện giữa núi rừng, đất trời Tây Bắc. Nỗi nhớ không định hình, định lượng, nó cứ mênh mang, lan tỏa.

Hơn thế nữa, khung cảnh thiên nhiên và con người Tây Tiến còn hiện lên cụ thể trong nỗi nhớ mênh mang của nhà thơ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Trước hết là thiên nhiên Tây Tiến hiện lên vừa khắc nghiệt, dữ dội vừa thơ mộng, huyền ảo “Sài Khao sương lấp”. Sài Khao là bản làng thân quen với con đường hành quân của người lính Tây Tiến. Địa danh ấy lại gắn liền với hình ảnh “sương lấp”. Hình ảnh ấy không phải là sự mờ ảo của không gian mà là sự khắc nghiệt của núi rừng. Khi miêu tả thiên nhiên, Quang Dũng bao giờ cũng sử dụng hai nét vẽ đối lập nhau. Vì vậy, sau cái dữ dội, khắc nghiệt lại là hình ảnh lãng mạn: “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Một lần nữa, Quang Dũng lại sử dụng từ chỉ địa danh. Chúng ta có thể bắt gặp nhiều địa danh trong thơ ca kháng chiến  của các nhà thơ. Đó có thể là những địa danh gắn liền với lịch sử dân tộc “Hồng Thái, Tân Trào, Điện Biên…” trong Việt Bắc của Tố Hữu. Nhưng Quang Dũng thì ngược lại, ông dùng những địa danh rất bình dị, thân thuộc, gắn liền với chặng đường hành quân gian khổ của người lính Tây Tiến. “Mường Lát” là tên của một bản làng, gợi ra nhiều điều thơ mộng. Cạnh bên địa danh ấy là hình ảnh “hoa về”. Tại sao không nói “hoa nở” mà nói “hoa về”? Bởi lẽ “hoa nở” là sự chuyển động một cách sinh học còn “hoa về” lại có nhiều cách hiểu. Nó có thể là những bông hoa của núi rừng, hay là hình ảnh cô gái địa phương nào đó, nó cũng có tể là hình ảnh của những người lính trở về sau cuộc hành quân với bó đuốc trong tay. Nhưng dù hiểu theo cách nào, “hoa về” đều là một hình ảnh thơ rất đẹp và lãng mạn. Đọng lại trong câu thơ thứ hai là hình ảnh “đêm hơi”. Khác với “sương lấp” ở câu thơ trên, “đêm hơi” vừa gợi ra sự hư ảo, bảng lảng, nhẹ nhàng, mơ hồ vừa gợi ra vẻ đẹp lãng mạn.

Hình ảnh người lính Tây Tiến tập trung thể hiện trong hình ảnh “đoàn quân mỏi”. Chỉ một chữ “mỏi” đã phản ánh cả một hiện thực gian khổ của cuộc sống chiến đấu mà người lính hằng ngày phải vượt qua. Nhưng ẩn đằng sau sự mệt mỏi ấy, chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế, lãng mạn của người lính trẻ qua hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”.

Khép lại bài thơ, âm hưởng bi tráng, hào hùng và lãng mạn đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Quang Dũng quả thực đã vô cùng thành công về đề tài viết về người lính khi sáng tác xong bài thơ Tây Tiến. Dư âm nỗi nhớ vẫn loang loang đâu đây, là tiếng gọi trìu mến của quá khứ, về một thời Tây Tiến oanh liệt.

Em tham khảo dàn ý chi tiết sau nhé:

MB:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề

TB:

- Hoàn cảnh sáng tác

- Vị trí đoạn trích

- Phân tích:

Thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính trên con đường hành quân gian khổ

* Hai câu thơ mở đầu:

“ Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.”

- Câu 1: nhắc tới 2 danh từ – điểm về, nơi đến của nỗi nhớ.

+ Hình ảnh “Sông Mã”: con sông gắn với đời lính => như gợi thức nỗi nhớ ùa về trong tâm hồn nhà thơ.

+ Tây Tiến: Đoàn binh.

+ Ngắt nhịp 4/3.

=> Câu thơ đầu với tiếng gọi đầu tiên là tiếng gọi đồng đội.

 - Câu 2: Điệp từ "nhớ” (2 lần), từ láy "chơi vơi”, điệp âm "ơi” ( 3 lần) => Tạo tính nhạc, hình tượng hoá nỗi nhớ.

+ Nhớ rừng núi: Không gian mênh mông của miền Tây.

+ Nhớ “chơi vơi” ( 2 thanh bằng, nhẹ, lan toả) => gợi cảm giác nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, nỗi nhớ luôn lơ lửng, ăm ắp khôn nguôi.

 => Cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ, bài thơ là nỗi nhớ.

* Bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội, hoang vu, hiểm trở vừa thơ mộng, trữ tình của núi rừng

- Bức tranh thiên nhiên dữ dội, hoang vu, hiểm trở:

+  BPNT liệt kê nhắc tới một loạt các địa danh ở miền Tây ấn tượng, khó quên trong đời lính.

+ Sương rừng: ở Sài Khao, Mường Lát: tên đất lạ lẫm, gợi 1 vùng xa xôi, hẻo lánh, bản làng, vùng đất người lính đã đi qua.

       > Sương lấp đoàn quân mỏi => Sương rừng mờ ảo, phủ dày đặc che kín như vùi lấp cả đoàn quân/ Màn sương mờ của kỉ niệm – nỗi nhớ thương.

       > Đoàn quân mỏi => gợi một cuộc hành quân dãi dầu đầy gian khổ của những người lính Tây Tiến.

+ Dốc núi, vực sâu (ba câu thơ tiếp)

       > NT sử dụng nhiều từ láy: "khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút”

       > Điệp từ: “dốc”

=> Diễn tả sự hiểm trở với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn của núi rừng Tây Bắc.

       > NT nhân hoá “súng ngửi trời”, phép đảo "hun hút cồn mây”

=> Nhấn mạnh cảm giác hoang vắng, trống trải nơi người lính đi qua chưa một dấu chân người. Đây là cách nói tinh nghịch, súng trở nên có hồn.

      > NT tương phản, điệp từ "ngàn thước”: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

=> Câu thơ như bẻ gãy làm đôi làm cho người đọc như thấy được rất rõ chiều cao của núi, độ cao chót vót của dốc, sâu hun hút của vực. Con đường gập khúc đột ngột, hiểm trở, hun hút.

=> Sử dụng từ láy giàu chất tạo hình, gợi tả, gợi cảm; những câu thơ toàn thanh trắc đã phác hoạ một bức tranh hoành tráng với tất cả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút của núi rừng miền Tây (thi trung hữu hoạ).

+ Núi rừng qua nét vẽ ấn tượng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

      > NT nhân hoá: "Thác gầm, cọp trêu”

=> Gợi tả dữ dội, hoang sơ, bí hiểm và đầy đe dọa của núi rừng miền Tây.

      > Thanh: 2 thanh trắc âm vực cao "thác", "thét”; 2 thanh nặng âm vực thấp "hịch", "cọp”.

=> Sự de doạ nặng nề của thú dữ ở vùng thấp tối .

      > Từ láy "chiều chiều, đêm đêm”

=> Tuần hoàn, lặp lại, vĩnh hằng của thời gian.

=> Núi rừng miền Tây là nơi ngự trị muôn đời của sức mạnh thiên nhiên dữ dội, bí hiểm.

- Bức tranh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình

+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân.

+ Mưa rừng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

     > NT: Tất cả âm tiết là thanh bằng, thanh không, âm mở (chữ cái tận cùng là nguyên âm); ẩn dụ "khơi” – biển mưa.

=> Không gian mênh mông chìm trong mưa nguồn suối lũ.

+ Cơm lên khói, mùa em thơm nếp xôi

+ Mùa em: mùa lúa chín; liên tưởng xao xuyến nồng nàn trước nụ cười rạng rỡ, ánh mát sóng sánh từ tình người miền Tây.

+ “Nhà ai”: vừa phiếm chỉ, vừa nghi vấn.

=> Người lính dừng chân nghỉ ngơi ở thung lũng mưa, đưa mắt nhìn và thấy ngôi nhà thấp thoáng. Hình ảnh mang cảm giác chạnh lòng nhớ vể gia đình, người thân; ấm áp, yên bình như được an ủi trên đường hành quân của chàng lính xa nhà.

* Hình ảnh người lính Tây Tiến đi hành quân:

- Hồn nhiên, tinh nghịch: súng ngửi trời, cọp trêu người (chất lính).

- Kí ức về người lính trên đường hành quân:

“ Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”

+ Anh bạn: gọi đồng đội tình cảm thân thiết, gắn bó.

+ Từ láy dãi dầu: vất vả, khó khăn, nhọc nhằn mà người lính phải đối mặt, vượt qua trên đường hành quân.

+ Không bước nữa, bỏ quên đời: Có thể hiểu là nghỉ ngơi buông mình vào giấc ngủ vô tư lự trẻ trung / có thể hiểu kiệt sức – xót xa / có thể hiểu là cái chết nhẹ nhõm quên đời.

=> Nổi bật chất bi tráng, thể hiện vẻ đẹp ngang tàng, anh dũng, ngạo nghễ, bi mà không luỵ, tinh nghịch bông đùa với cái chết, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

KB: Nêu cảm nhận chung

Câu hỏi trong lớp Xem thêm