Phân tích khổ 5 6 7 bài sóng

2 câu trả lời

I, Dàn ý tham khảo

1, Mở bài

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

2, Thân bài

* Khái quát: lí luận về thơ

a, Khổ 5: Nỗi nhớ

b, Khổ 6: lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

c, Khổ 7: khao khát mãnh liệt của người phụ nữ khi yêu

* Khái quát cuối

- Đánh giá về nội dung, nghệ thuật

- Gía trị của tác phẩm

- Nêu phong cách nghệ thuật của tác giả

- Liên hệ với các tác phẩm khác

3, Kết bài

- Tình cảm của em dành cho bài thơ "Sóng".

II, Bài văn tham khảo

Từ xưa đến nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân. Tuy nhiên mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Nó có thể đậm chất triết lý như trong thơ Tago hay tha thiết, cháy bỏng như thơ của Xuân Diệu. Với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tình yêu đầy những âu lo, trăn trở và khát khao hạnh phúc đời thường của người phụ nữ…

Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết…thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Qúy Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ nét điều đó. Tac phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền. Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” khi tách biệt, khi thống nhất, hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.

Khổ thơ thứ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển. Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước”–“dưới lòng sâu”, “ngày”-“đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng  nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”. Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở. Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.

Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức. Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lí, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lí giải bởi qui luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lí đều có thể trở thành hợp lí và ở đây cũng vậy. Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.

Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh – một phương”

Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam”

Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “Dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.

Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:

"Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

Lời đọc thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-“ đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.

Tấm lòng thủy chng trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.

Để có được tình yêu vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt vừa trong sáng thủy chung thì con sóng phải vượt  qua đại dương mênh mông để đến với “bờ anh”

“Ở ngoài kia đại dương

….

Dù muôn vời cách trở”

Người phụ nữ đang yêu tin vào tình yêu sẽ đến bến bờ hạnh phúc dù trải qua bao khó khăn thử thách. Đúng vậy! Một tình yêu chân chính, đích thực, một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu sẽ giúp họ vượt qua bao sóng gió cuộc đời cập đến bến bờ tương lai của hạnh phúc. Hãy nhìn vào  hiện thực như trở thành quy luật, dù gió có ở thật xa nơi bãi bờ thì nó cũng sẽ tìm đến những bãi cát dài dù trải qua thật nhiều khó khăn, cũng như vậy! tình yêu của em dù gặp biết bao trở ngại em vẫn vượt qua để đến bên anh, đến một mái ấm gia đình như Chế Lan Viên từng viết:

“Cây nối đầu cây chạy đến em

Đếm cây hoài lại mọc cây thêm

Tình anh làm cái cây sau chót

Về tới quê em mọc tận thềm”

Cũng như vậy ba khổ thơ với nỗi nhớ, sự trăn trở và tấm  lòng chung thủy son sắt cùng với phép lặp,nhân hóa, ẩn dụ,sử dụng cách nói ngược với những hình ảnh đối lập đã khẳng định niềm tin mãnh liệt vào tình yêu, tình yêu đẹp sẽ vượt qua mọi thử thách. Tha thiết với tình yêu, khao khát sống mãi trường tồn với tình yêu nhà thơ đã có chút khắc khoải, lo âu về sự tan chảy của thời gian, đời người cũng mong manh và hạnh phúc của trái tim yêu  Xuân Quỳnh cũng vậy. Nhưng nhớ da diết, yêu thương nồng nàn luôn đồng hành với nỗi lo âu khắc khoải:

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

Đời người trăm năm ngỡ dài thăm thẳm nhưng con tàu thời gian cứ vun vút lao đi không chờ đợi chúng ta. Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đầy nhạy cảm nhà thơ nhận ra vũ trụ mãi vĩnh hằng-cuộc đời con người thì hữu hạn

“Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Lo lắng tình yêu đổ vỡ, phai nhạt, khi đứng trước sự chảy trôi của thời gian.Nhưng người phụ nữ ấy vẫn luôn tin vào tương lai của tình yêu, vào ý nghĩa đích thực của tình yêu

“Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa”

“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khat vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung. Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.

* bn tham khảo nhé*

Thơ Xuân Quỳnh có nét rất riêng, trong số các nhà thơ nữ của Việt Nam, đó là: chân thật và đam mê mãnh liệt. Trong thơ chị cháy lên cái sắc màu của một thế giới lung linh, thế giới tình yêu. Thơ Xuân Quỳnh, thơ tình Xuân Quỳnh là niềm khao khát hạnh phúc. Thơ Xuân Quỳnh rất tình, rất đời và rất đàn bà bởi niềm khát khao ấy. Nói đến khát khao hạnh phúc trong thơ Xuân Quỳnh có nghĩa là nói đến “Sóng”. Trong bài thơ này, nỗi nhớ niềm thương của người đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật cảm động và đầy nghệ thuật. Nỗi nhớ như bao trùm cả không gian bao la. Nó chiếm cả tầng sâu, bề mặt của tâm hồn. Và nó khắc khoải da diết được thể hiện trong ba khổ thơ cuối 5, 6, 7 của bài thơ “Sóng”.

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Con sóng dưới lòng sâu;con sóng trên mặt nước” là những cung bậc, những biểu hiện phong phú đa dạng nỗi nhớ của “em”. “Sóng trên mặt nước” là biểu hiện nỗi nhớ khi thương. Còn “sóng dưới lòng sâu” là nỗi nhớ âm thầm lắng sâu trong cõi lòng và “cả những lúc giận anh mà lòng em vẫn nhớ”. Nỗi nhớ ấy mới khắc khoải, bồn chồn, thổn thức sâu thẳm biết nhường nào! Hai câu thơ “Lòng em nhớ đến anh; cả trong mơ còn thức” đã diễn tả được một cách thật xúc động và chân thực cõi lòng của người phụ nữ đang yêu bằng một tình yêu thật trong sáng và mãnh liệt. “Em” nhớ “anh” từ cõi thực đến cõi mơ. Cái thức trong giấc mơ mới là tình cảm thật nhất, sâu sắc nhất của cõi lòng. Bàn chân con người có thể “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam”, nhưng trái tim chỉ “hướng về anh một phương” như hoa hướng dương hướng về mặt trời vậy… Ở đây, một lần nữa, Xuân Quỳnh đã mượn kết cấu trùng điệp để tăng tiến nỗi nhớ của lòng mình. Với người phụ nữ ấy, không phải phương Bắc hay phương Nam mà chỉ là một phương duy nhất. Đó là phương của tâm trạng, của trái tim. Thành thật và cháy bỏng đến nhường ấy, da diết đến nhường ấy! Dù hơi táo bạo, nhưng sự đắm say của khát vọng tình yêu đã trở thành điểm tựa để thơ Xuân Quỳnh cất cánh. Đoạn thơ trên của Xuân Quỳnh vừa là tiếng nói tha thiết cháy bỏng của trái tim người phụ nữ trong nỗi nhớ, vừa được viết với thủ pháp nghệ thuật của bàn tay một thi sĩ tài hoa. Nỗi nhớ được thể hiện hằng hình tượng gián tiếp chưa đủ, nó còn được biểu hiện trực tiếp như trái tim không thể kìm nén nổi, tự thốt thành lời:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Để nhấn mạnh tính đa dạng, sâu đằm của nỗi nhớ, tác giả còn sử dụng thủ pháp điệp “con sóng” (ba lần), nhân cách hoá “con sóng nhớ bờ”, biện pháp đối lập “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”. Nỗi nhớ ở đây đã trở thành tình cảm thường trực trong “trái tim bé nhỏ mà không bến bờ” của thi sĩ cứ trào dâng, cứ tầng tầng, lớp lớp tưởng chừng như tới tột độ, cứ nối tiếp nhau hối thúc trào ứ trong tâm hồn. Đã có biết bao câu ca dạo, biết bao bài thơ viết rất hay về nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu:

“Em nhớ anh không chỉ trong giấc ngủ
Em nhớ anh không chỉ lúc dạo chơi
Em nhớ anh không chỉ khi trăng tỏ
Em nhớ anh không chỉ lúc mưa rơi
Ôi! Cái nhớ sao mà kì diệu
Ôi! Cái thương sao khéo mặn mà
Có phải lúc xa nhau ta mới hiểu
Hết lòng người trong mỗi phút giây qua”
(Hoàng Thị Minh Khanh)
Ở trong bài thơ này, Xuân Quỳnh đã có thêm một tiếng nói mới mẻ về tình cảm đó bằng những vần thơ giản dị mà sâu sắc và không kém phần độc đáo.

Tình yêu chân chính là như vậy: vừa sôi nổi thiết tha, mãnh liệt, vừa trong sáng, thuỷ chung. Vì tình yêu mà thi sĩ suy tư ở đây không phải là một thứ tình cảm phiêu diêu, huyền ảo nào mà là tình yêu trần thế gắn với đời thường. Mà đời thường không hoàn toàn bình yên, phẳng lặng; trái lại, lắm khi gặp giông tố, bão bùng. Vì vậy, trong tình yêu cần phẩm chất thuỷ chung, ý chí, nghị lực, sức mạnh của tình cảm để vượt qua mọi không gian, thời gian, mọi trắc trở để tìm đến bến bờ của hạnh phúc lứa đôi:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Hãy quan sát cái hiện tượng gần như trở thành quy luật có vẻ nghịch lý của đại dương. Dù gió từ bờ thổi ra thì sóng ở ngoài xa vẫn hướng vào bờ. “Em” cũng thế, cho dù gặp biết bao trở ngại, “em” cũng sẽ vượt qua hết để đến với “anh”, đến với một mái ấm hạnh phúc gia đình… (như Chế Lan Viên đã viết:

“Cây nối đầu cây chạy đến em
Đếm cây hoài lại mọc cây thêm
Tình anh làm cái cây sau chót
Về tới quê em mọc tận thềm”
Khi đã yêu thực lòng thì dù muôn vời cách trở, chúng ta vẫn đến được với nhau. Ca dao xưa đã từng viết:
“Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua”
Tình yêu là như vậy, luôn luôn gắn liền với lòng tin, tin ở cuộc đời, tin ở người mình yêu, tin ở chính sức mạnh của tình yêu. Chả thế mà qua bấy nhiêu năm tháng sống dưới cảnh đạn bom tàn phá những gì quý giá do chính bàn tay mình xây dựng nên, vậy mà trong tâm hồn người con gái bé nhỏ “Nguyệt vẫn có tình yêu và niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, cái sợi chỉ xanh óng ánh ấy dù cho bao nhiêu bom đạn dội xuống cũng không thể đứt, không thể tàn phá nổi” (Mảnh trăng cuối rừng). Bài thơ thoáng một chút khắc khoải, lo âu về sự chảy trôi của thời gian, cái ngắn ngủi của cuộc đời mình và tình yêu cuả bản thân. Giữa lúc trái tim đang yêu nồng nàn, yêu hết mình vẫn thấp thoáng một dự cảm day dứt rất chính đáng:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Biển dù rộng tới đâu rồi cũng có bờ, có giới hạn và những đám mây không thể dừng lại mãi mãi trên biển, mà chúng tiếp tục cuộc hành trình trên bầu trời để đi đến cõi vô tận xa xăm. Cũng thế, cuộc đời con người tuy dài nhưng không phải vĩnh hằng, dù con người không mong đợi nhưng năm tháng vẫn bình thản trôi qua đời người theo quy luật tất yếu khắc nghiệt của thời gian. Không gian và thời gian là vô hạn. Ở một chỗ khác, Xuân Quỳnh cũng đã có một câu thơ tương tự “Thời gian như là gió; Mùa đi theo tháng năm; Tuổi theo mùa đi mãi”.

Vì thế, đứng trước biển, con người càng có cảm giác về cái nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người trước cái vĩnh hằng của vũ trụ. Do đó, con người luôn luôn có khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu, khát khao được gắn bó mãi mãi với cuộc sống này, hoà nhập với cuộc đời vĩnh hằng bằng tình yêu của mình. Niềm khát khao ấy, Xuân Quỳnh lại gửi vào hình tượng “sóng”: Những con sóng tan ra không phải để biến mất trên đại dương mà là để hóa thân, để tồn tại vĩnh viễn trong vô tận các con sóng khác. Cũng thế, con người sẽ ra đi nhưng tình yêu thì ở lại, một tình yêu vô tận, vĩnh hằng như sóng giữa biển khơi. Đây là một khát vọng rất con người:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Tình yêu của bản thân thì hữu hạn với đời người. Muốn nó đi vào vĩnh hằng, chỉ còn một cách là hoà tan tình yêu vào những con sóng tình yêu của biển đời để ngàn vạn năm sau, con sóng đó “Vẫn hát mãi bên ghềnh; Một tình chung không hết” (Xuân Diệu). Ở đây, tình yêu dường như đã lớn hơn cả bản thân, dài hơn cả cuộc dời. Trong bài thơ “Tự hát”, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh cũng đã khẳng định:

“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”

Như vậy, bằng trái tim phụ nữ đằm thắm, thiết tha, bằng bút pháp thơ giản dị mà hàm súc, hồn nhiên mà đầy nghệ thuật, Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng” đã làm nổi bật được vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu – một tình yêu giàu nữ tính, rất truyền thống mà cũng rất hiện đại.

 

Câu hỏi trong lớp Xem thêm