phân tích khổ 3 bài thơ việt bắc...cho em xin cách làm ạ

2 câu trả lời

Em tham khảo câu trả lời dưới đây nhé:

1. MB:

- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm

- Nêu nội dung chính của khôt thơ

2. TB:

- Nỗi buồn của người ở lại được thông qua việc gợi lại những kỉ niệm xưa

- Những kỉ niệm cùng chia ngọt sẻ bùi

+ Những ngày mưa bão cùng nhau băng rừng lội suốt

+ Những khi cùng nhau san sẻ miếng ăn, cùng nỗi căm thù bọn giặc mạn rợ

- Sự băn khoăn, lo lắng của người ở lại sợ người ra đi sẽ quên mất mình

- Người ở lại lúc nào cũng nhớ người ra đi, nỗi nhớ ấy được thể hiện qua: rừng núi, cỏ cây

- Nghệ thuật:

+ Điệp cấu trúc câu

+ Biện pháp liệt kê

+ Biện pháp ẩn dụ

3. KB:

- Nỗi lòng của người ở lại với người ra đi

* Bài làm:

 Tố Hữu là một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Các vần thơ của ông thường viết về cách mạng và kháng chiến. Bài thơ "Việt Bắc" là tác phẩm viết năm 1946 nói về cuộc chia li giữa cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Khổ ba của bài thơ đã thể hiện rất rõ nỗi lòng của người ở lại trước sự ra đi của những người chiến sĩ cách mạng. 

Nhớ, nhớ…Một nỗi nhớ khôn nguôi… Tố Hữu đã để cho người dân Việt Bắc được trải lòng trên những trang thơ của mình với những kỉ niệm rất đỗi giản dị và đơn sơ. Nhưng chính những điều nhỏ bé ấy lại là cốt lõi, là cội nguồn của dân tộc.

Đoạn thơ là tâm tư, là nỗi niềm của người dân Việt Bắc muốn thổ lộ với những người lính trong giờ phút chia li. Cảm xúc là thứ không thể định nghĩa được nhưng lại hằn in trên từng kỉ niệm đằm thắm và sâu sắc. Những kỉ niệm ấy là những tháng ngày vượt gian nan, cả dân và quân cùng sát cánh bên nhau đi qua gian khổ, thiếu thốn, cùng chống lại “mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”.

Rồi những ngày ở chiến khu, dù bữa cơm chỉ có muối trắng nhưng “mối thù nặng vai”. Tác giả sử dụng hình ảnh đối lập không phải chỉ để nói lên những khó khăn của cuộc kháng chiến mà điều quan trọng trong đó là tấm lòng sắt son với đất nước, là ý chí quyết tâm chiến đấu đến cùng dù có gian khổ hay thiếu thốn bao nhiêu. Những con người xa lạ bỗng chốc trở nên quen thuộc, thân thiết khi cùng chung một lý tưởng giải phóng đất nước, mang lại độc lập tự do cho dân tộc.

Trong suốt cả “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”, giữa người với người đã trở thành “mình” với “ta”. Họ đã hòa chung làm một, tưởng chừng như không gì có thể tách rời. Trong giây phút phân li, mọi người “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”, để cho “rừng núi nhớ ai”, cho “trám bùi để rụng, măng mai để già”. Chiến tranh kết thúc, các anh ra về, những trái trám ngọt bùi, những ngọn măng mai trước đây từng là món ăn khoái khẩu, đặc sản nay không người hái, không người thưởng thức. Hình ảnh rất đơn sơ nhưng chất chứa nhiều tình cảm mến thương.

Không hề xa hoa, hào nhoáng, cũng không có một ngôn từ nào mĩ lệ, những vần thơ vẫn cứ thế đi vào lòng người một cách rất tự nhiên. Một loạt những kỉ niệm thân thương khiến kẻ ở người đi không khỏi bồi hồi xao xuyến. Những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, dù có nghèo nhưng với tầm lòng thủy chung với cách mạng, những người dân nơi đây vẫn luôn sẵn sàng hi sinh tất cả cho chiến sĩ, miễn sao họ có điều kiện tốt nhất có thể để cầm súng xông pha ra mặt trận chiến đấu với kẻ thù. Nhờ có những tấm lòng son ấy, họ đã cùng nhau kháng Nhật, chống Việt Minh, làm nên các chiến thắng lẫy lừng ở Tân Trào, Hồng Thái, trả lại sự bình yên cho “mái đình, cây đa”.

Biết bao nhiêu kỉ niệm không thể nào nói hết thành lời. Giây phút chia tay bịn rịn và quyến luyến không ai nỡ rời xa. Điều đặc biệt ở đây là những hình ảnh được Tố Hữu gợi nhớ lại đều gắn liền với cội nguồn, với cốt lõi của dân tộc, của nhân dân như: miếng cơm chấm muối, những mái nhà hắt hiu lau xám, núi non, thuở kháng Nhật, Việt Minh, mái đình cây đa và hai địa danh Tân Trào, Hồng Thái. Đây không chỉ là những lời nhắn nhủ của nhân dân Việt Bắc dành cho cách chiến sĩ cách mạng trở về xuôi mà còn là một cách để ghi lại dấu ấn lịch sử của dân tộc về một thời kháng chiến tại chiến khu Việt Bắc.

-

Ở đó, cả rừng núi và nhân dân đều đóng vai trò rất quan trọng. Nếu như rừng núi là căn cứ bí mật, an toàn để quân ta áp dụng những chiến lược chiến đấu thì nhân dân nơi đây là hậu phương vững chắc luôn giúp các anh luôn vững tay súng chống trả kẻ thù. Có những lúc dù chỉ có miếng cơm chấm muối hay miếng cà dầm tương, họ cũng chia sẻ cùng nhau. Họ đã cống hiến hết mình cho cách mạng. Không góp được máu nhưng bao mồ hôi công sức họ dồn hết tất cả cho đất nước. Để đến giây phút này khi phải chia li, họ gửi gắm cho nhau những tình cảm chân thành nhất, nồng nàn nhất.

Tố Hữu vừa là một nhà thơ nổi tiếng, vừa là một người chiến sĩ đã cùng nhân dân vào sinh ra tử tại nơi này, nên ông hiểu hơn ai hết cuộc sống của những ngày tháng qua, của “mười lăm năm ấy” dẫu có bao gian nan những vẫn “thiết tha mặn nồng”. Viết lên những vần thơ này, hẳn lòng ông cũng nghẹn ngào lắm, xúc động lắm. Và chính bản thân ông cũng đã cống hiến hết mình cho dân tộc. Những câu chữ ông dùng không có một từ nào mới mẻ nhưng chính sự giản dị, chân phương đã chiếm được nhiều cảm xúc của người đọc.

Ông đã thay lời người dân nơi đây nhắn nhủ cho các chiến sĩ cách mạng. Rằng mai này khi trở về rồi cũng đừng bao giờ quên những tháng ngày đã cùng nhau gắn bó nơi đây, cùng nhau bước qua bao gian khổ để đi đến đích chiến thắng vẻ vang. Trong số đó dù không ít người đã bỏ lại mình nơi đây nhưng dù ở đâu thì cũng là trên quê hương Việt Nam dấu yêu.

Đoạn thơ đã tái hiện lại những kỉ niệm giản dị giữa người dân miền bắc và chiến sĩ cách mạng trong suốt thời kỳ kháng chiến. Những kỉ niệm ấy không chỉ là ký ức của riêng ai mà là dấu ấn lịch sử của cả dân tộc.





* Bạn tham khảo bài làm dưới đây nhé!

I, Dàn ý tham khảo

1, Mở bài

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm

- Giới thiệu về khổ 3.

2, Thân bài

a, Lí luận về thơ

b, Phân tích

- Sáu câu thơ đầu

- Sáu câu thơ cuối

* Khái quát cuối

- Chốt lại về nội dung, nghệ thuật

- Đánh giá phong cách nghệ thuật của tác giả

- Liên hệ, mở rộng 

3, Kết bài

- Tình cảm của em dành cho tác phẩm

II, Bài văn tham khảo

Tố Hữu đã từng nói :Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy, chính những niềm thương, nỗi nhớ trào dâng ấy đã tạo ra những rung động mãnh liệt trong cảm xúc để rồi thơ ca đã trào ra bao nỗi nhớ thương vô vàn. “Việt Bắc” chính là những rung động mạnh liệt ấy của Tố Hữu. Trong bài thơ, tác gải đã tái hiện những ngày tháng kháng chiến gian khổ và sức mạnh hào hùng của quân dân Việt Bắc. Điều này được thể hiện rõ qua đoạn thơ thứ ba của bài.

 Nếu như tác phẩm tự sự thường phản ánh tư tưởng, tình cảm của tác giả thông qua việc tái hiện khách quan hiện thực đời sống thông qua tình huống truyện, sự kiện, nhân vật, chi tiết…thì thơ ca đi vào phản ánh thế giới tâm hồn con người trước rung cảm tinh tế sâu sắc, trước cuộc sống muôn màu. Vì thế Lê Qúy Đôn nói: “thơ ca khởi phát từ lòng người”. Có thể nói, bài thơ “Việt Bắc” cũng như hai đoạn thơ trên đã thể hiện rõ nét điều đó. “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm phản ánh cụ thể phong cách thơ của Tố Hữu, đó là khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, khuynh hướng sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn, giọng điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết, tính dân tộc đậm đà. Bài thơ được viết vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tác phẩm được xem là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

Xét về mặt hình thức, ba câu lục của đoạn thơ được tổ chức khá đặc biệt:

“Mình đi, có nhớ những ngày”

“Mình về, có nhớ chiến khu”

“Mình về, rừng núi nhớ ai”

Dễ dàng nhận thấy, ba câu thơ được tổ chức thành ba câu hỏi tu từ kết hợp với điệp từ “nhớ” vừa có tác dụng khơi dậy những kỉ niệm gắn bó, nỗi nhớ thương sâu sắc đối với quê hương Việt Bắc. Vừa còn là lời nhắc nhở tha thiết yêu thương đầy trìu mến: Xin đừng bao giờ quên đi những kỉ niệm kháng chiến, cội nguồn của thắng lợi hôm nay. Câu hỏi tu từ còn giống như một lời tự dặn lòng mình của những con người Việt Bắc hãy khắc ghi những ân tình cách mạng. Hơn nữa, mỗi một câu hỏi tu từ lại gắn liền với một kỉ niệm nào đó không thể phai mờ trong tâm trí của người ra đi. Đó có thể là một mốc thời gian của những ngày đầu kháng chiến gian khổ trong suốt hành trình, trong suốt chiều dài của 15 năm kháng chiến. Đó cũng có thể là không gian của chiến khu giữa núi rừng Việt Bắc hay có thể là hình bóng của một người nào đó.

Bên cạnh câu hỏi tu từ, ba câu thơ lục còn là sự hoán đổi của đại từ “mình đi” – “mình về”. Đây là cặp đại từ rất quen thuộc trong ca dao dùng để chỉ mối quan hệ về vợ chồng hay tình yêu đôi lứa:

“Mình về ta chẳng cho về

Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”

hay:

“Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”

Nhưng độc đáo thay, Tố Hữu lại sử dụng đại từ “mình” để chỉ người cán bộ kháng chiến. Nhờ thế mà tình cảm kháng chiến vừa có cái ngọt ngào trữ tình vừa có cái mặn nồng, đằm thắm, tha thiết của câu chuyện tình yêu. Đây có lẽ là một trong những nguyên nhân khiến cho mỗi chúng ta khi đọc về câu chuyện chính trị, câu chuyện kháng chiến trong thơ của Tố Hữu mà không hề cảm thấy khô khan, giáo điều mà luôn thấy trong nó có một sức truyền cảm và lay động bản thân ta một cách lạ kì. Hơn nữa, đại từ “mình” lại được kết hợp với động từ “đi” – “về”, được hoán đổi liên tục trong ba câu thơ lục nhưng lại để chỉ cùng một đối tượng kháng chiến đã tạo nên sự linh hoạt cùng nhịp điệu ngân nga, ngọt ngào cho cả đoạn thơ. Thơ Tố Hữu giàu nhạc điệu có lẽ cũng từ những điều đó.

Nếu xét ở khía cạnh nội dung thì ba câu thơ còn lại của đoạn thơ là lời gơi nhắc về những kỉ niệm kháng chiến không thể nào quên trên quê hương cách mạng. Trước hết là lời nhắn nhủ tha thiết của người dân Việt Bắc về những ngày kháng chiến đầy gian khó “Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”. Câu thơ này đã mở ra hai hình ảnh “mưa nguồn suối lũ” – “những mây cùng mù”. Hai hình ảnh ấy chính là lời gợi nhắc về cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, có lúc nó dữ dội khắc nghiệt với cảnh mưa rừng sương núi nhưng nó cũng có những khoảnh khắc thật thơ mộng, lãng mạn của mây mờ bao phủ. Câu thơ tiếp theo “Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai” được tách làm hai vế đối lập nhưng hài hòa về ý nghĩa. Hình ảnh “miếng cơm chấm muối” là hiện thân cho hiện thực gian khổ, thiếu thốn vật chất trong sinh hoạt chiến đấu của quân dân Việt Bắc. Đó là khi cơm không đủ ăn, áo không đủ ấm. Tất cả là sự đạm bạc, đơn sơ nghèo khó. Nhưng chính trong khó khăn ấy đã nuôi dưỡng được “mối thù nặng vai”. Tức là nuôi dưỡng được ý thức trách nhiệm với dân tộc, nuôi dưỡng được ý chí đấu tranh cùng sự quyết tâm sát cánh cùng nhau để giành chiến thắng.

Đoạn thơ còn là lời nhắn nhủ về tình cảm mặn nồng ân nghĩa của đồng bào Việt Bắc đối với người kháng chiến “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Tố Hữu gợi dẫn những hình ảnh thiên nhiên thân thuộc “trám bùi”, “măng mai” để gợi nhớ về những tháng ngày chia ngọt sẻ bùi với những món ăn dân dã đặc trưng của con người Việt Bắc. Chính nhờ những món ăn này mà mà nghĩa tình đồng bào trở nên gắn bó, keo sơn, thắm thiết. Tác giả gợi dẫn như vậy cũng là một cách khéo léo, tế nhị mượn thiên nhiên để bộc bạch những tình cảm nhớ thương của con người Việt Bắc. Xa người cán bộ kháng chiến, thiên nhiên cũng đong đầy những tâm trạng nhớ thương, lưu luyến, thậm chí cả thẫn thờ, trống vắng: khi trám bùi cứ để rụng, măng mai cứ để già, không còn ai tha thiết hái lượm. Có lẽ nhờ cách diễn đạt này mà người đi kẻ ở thực sự như đôi bạn tình rất đỗi thủy chung, gắn bó. Chỉ với sáu câu thơ, Tố Hữu đã tái hiện trọn vẹn nghĩa tình cách mạng trong những ngày đầu gian khó.

Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: cán bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không?

Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.

Cụm từ nhớ những nhà biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không? Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến nỗi hắt hiu lau xám. Từ láy hắt hiu kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn làm Việt Minh hay không? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với cách mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.

Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.

Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ mình thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ mình thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, mình là Việt Bắc đại từ nhân xưng ngôi thứ hai thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ? Ở nghĩa hẹp hơn, mình chính là cán bộ về xuôi đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.

Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện cây đa Tân Trào (12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam, lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc Cách mạng Tháng Tám; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội, có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?

Chỉ với mười hai câu thơ trong khổ ba của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa Cách Mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập mình đi mình về. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.

Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm