Phân tích hình tượng Sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó, nhận xét khái quát về cái tôi của Nguyễn Tuân.

2 câu trả lời

  • Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân, in trong tập Sông Đà, là thiên tuỳ bút tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.
  • Sức hấp dẫn của bài tuỳ bút này chính là ở “tính chủ quan, tính trữ tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của nhà văn”.

Là nhà văn có.phong cách nghệ thuật đặc sắc, văn chương Nguyễn Tuân hấp dẫn người đọc bởi “cái tôi” độc đáo, sự tài hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh tế, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc. Sức hấp dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà là ở sự độc đáo, sự giàu có về chữ nghĩa, sự công phu trong quan sát và lựa chọn ngôn từ. Tất cả đều mang đậm chất Nguyễn Tuân.

– “Cái tôi” tài hoa thể hiện ở những rung động, say mê của nhà văn trước vẻ đẹp hùng vĩ và mĩ lệ của thiên nhiên đất nước; ở sự phát hiện và ngợi ca phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của những con người lao động; ở những trang văn đẹp như thơ, như nhạc, như hoạ. Nhà văn đã phát hiện và miêu tả sông Đà như một sinh thể sống, với tính cách hung bạo và trữ tình, để từ đó tấu lên một khúc tráng ca về con sông dũng mãnh trên chốn thượng nguồn; đồng thời ngân nga những thanh âm dịu dàng, trong trẻo, êm ái chốn hạ lưu. Từ đó, nhà văn đã tạc dựng hình ảnh người lái đò trong cuộc vượt thác đầy kịch tính và cũng thật ngoạn mục. Nguyễn Tuân tỏ ra hứng thú đặc biệt trong việc khám phá, thể hiện “chất vàng mười” trong tâm hồn con người Tây Bắc. Tất cả đã cho ta thấy ở Nguyễn Tuân một “cái tôi” tài hoa, tinh tế.

– “Cái tôi” uyên bác thể hiện ở cách nhìn và sự khám phá hiện thực có chiều sâu; ở sự vận dụng kiến thức sách vở và các tri thức của đời sống một cách đa dạng, phong phú;ở sự giàu có về chữ nghĩa. Các thuật ngữ chuyên môn của các ngành quân sự, điện ảnh, thể thao,… được huy động một cách hết sức linh hoạt nhằm diễn tả một cách chính xác và ấn tượng những cảm giác về đối tượng. Hình ảnh dòng sông Đà và người lái đò sông Đà đã được nhà văn miêu tả, tái hiện một cách ấn tượng từ nhiều góc nhìn, với những chi tiết điển hình, tiêu biểu; những liên tưởng, so sánh bất ngờ, thú vị. Tất cả đều cho thấy khả năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ hết sức điêu luyện của Nguyễn Tuân.

– “Cái tôi” tài hoa và uyên bác chính là một cách thể hiện tình yêu quê hương đất nước, lòng yêu cái đẹp của người nghệ sĩ chân chính; đồng thời cũng cho thấy quan niệm của Nguyễn Tuân: viết văn là để khẳng định sự độc đáo của chính người cầm bút. Thổ tuỳ bút, với đặc điểm của một lối văn “độc tấu” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) đã phát huy tối đa hiệu quả của nó trong việc bộc lộ “cái tôi” trữ tình của nhà văn.

  • Khẳng định cái tài và cái tâm của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương.
  • Nêu cảm nhận, ấn tượng riêng của cá nhân về “cái tôi” trữ tình Nguyễn Tuân trong tùy bút Người lái đò Sông Đà.

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: “nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp” - có phong cách nghệ thuật độc đáo, uyên bác, tài hoa.
  • Tác phẩm Người lái đò sông Đà: là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách của Nguyễn Tuân.
  • Hình tượng con sông Đà chính là thứ vàng mười của thiên nhiên mà Nguyễn Tuân tìm kiếm.

II. Thân bài

1. Sông Đà hung bạo

- Hướng chảy của sông Đà cho thấy đó là một dòng sông đầy cá tính “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”.

- Bờ sông dựng vách thành: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá... như một cái yết hầu”

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

- Ở quãng Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô...mượn cạp ngoài bờ vực”,

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

  • Từ xa, âm thanh thác đá “còn xa lắm” mà đã nghe tiếng thác “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, âm thanh ấy hiện lên với nhiều trạng thái khi “oán trách”, lúc “van xin”, khi “khiêu khích”, “chế nhạo”; cách so sánh độc đáo: “rống lên như một ngàn con trâu... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
  • Đến gần, đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”
  • Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận: có 3 vòng, vòng 1 có 5 cửa sinh, một cửa tử (tả ngạn), vòng 2 có nhiều cửa tử, 1 cửa sinh (hữu ngạn), vòng 3 có ít cửa và 1 cửa sinh (giữa), gợi hình ảnh con sông Đà có tâm địa nham hiểm, mẹo lược, biến hóa khôn lường.

=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái - “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá”.

2. Sông Đà trữ tình

- Khi từ tàu bay nhìn xuống:

  • “Sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình... đốt nương xuân”
  • Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

  • Niềm vui vô hạn của tác giả khi bất ngờ gặp sông Đà: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
  • Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

  • Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
  • Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

=> Sông Đà trữ tình như một cố nhân.

- Như vậy: Hình tượng sông đà vừa mang nét hung bạo lại vừa trữ tình thơ mộng. Qua hình tượng sông Đà đã thể hiện tình cảm của Nguyễn Tuân với thiên nhiên Tây Bắc.

III. Kết bài

- Nội dung: Tác phẩm là áng văn đẹp được tạo nên từ tình yêu đất nước của một con người muốn dùng văn chương để ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng của thiên nhiên và con người Tây Bắc.

- Nghệ thuật: So sánh, nhân hóa, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực, xây dựng hình tượng thành công.