Phân tích bức tranh Phố huyện nghèo trong truyện ngắn Hai Đứa Trẻ bạn nào làm cái này r cho mình xin bài văn với ạ

2 câu trả lời

Hai đứa trẻ tuy chưa phải là truyện ngắn hay nhất nhưng lại khá tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam: bình dị, nhẹ nhàng mà tinh tế, thâm thúy. Truyện dường như chẳng có gì: hầu như không có cốt truyện, chẳng có xung đột gay cấn, chẳng có gì đặc biệt cả. Hai đứa trẻ chỉ là một mảng đời thường bình lặng của một phố huyện nghèo từ lúc chiều xuống cho tới đêm khuya, với hương vị màu sắc, âm thanh quen thuộc: tiếng trống thu không cất trên một chiếc chòi nhỏ, một ráng chiều ở phía chân trời, một mùi vị âm ẩm của đất, tiếng chó sủa, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve... những âm thanh của mấy người bé nhỏ, thưa thớt, một quán nước chè tươi, một gánh hàng phở, một cảnh vãn chợ chiều với vỏ nhãn, vỏ thị, rác rưởi và những đứa trẻ con nhà nghèo đang cúi lom khom tìm tòi, nhặt nhạnh, một đoàn tàu đêm lướt qua... và nỗi buồn mơ hồ với những khao khát đến tội nghiệp của Hai đứa trẻ

Chuyện hầu như chỉ có thế.

Nhưng những hình ảnh tầm thường ấy, qua tấm lòng nhân hậu, qua ngòi bút tinh tế, giàu chất thơ của Thạch Lam lại như có linh hồn, lung linh muôn màu sắc, có khả năng làm xao động đến chỗ thầm kín và nhạy cảm nhất của thế giới xúc cảm, có khả năng đánh thức và khơi gợi biết bao tình cảm xót thương, day dứt, dịu dàng, nhân ái.

Đó là truyện của Hai đứa trẻ nhưng cũng là truyện của cả một phố huyện nghèo với những con người bé nhỏ thưa thớt, tội nghiệp đang âm thầm đi vào đêm tối.

Ít có tác phẩm nào hình ảnh đêm tối lại được miêu tả đậm đặc, trở đi trở lại... như một ám ảnh không dứt như trong truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam: tác phẩm mở đầu bằng những dấu hiệu của một “ngày tàn” và kết thúc bằng một “đêm tịch mịch đầy bóng tối”, ở trong đó, màu đen, bóng tối bao trùm và ngự trị tất cả: đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối, tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại sẫm đen hơn nữa. Một tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn, khô khan, không vang động ra xa, rồi cũng chìm ngay vào bóng tối...

Cả đoàn tàu từ Hà Nội mang ánh sáng lướt qua trong phút chốc rồi cũng “đi vào đêm tối”...

Trong cái phông của một khung cảnh bóng tối dày đặc này, là những mảnh đời của những con người sống trong tăm tối. Họ là những con người bình thường, chỉ xuất hiện thoáng qua, hầu như chỉ như một cái bóng, từ hình ảnh mẹ con chị Tí với hàng nước tồi tàn đến một gia đình nhà xẩm sống lê la trên mặt đất, cho đến cả những con người không tên: một vài người bán hàng về muộn, những đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh, tìm tòi...

... Tất cả họ không được Thạch Lam miêu tả chi tiết: nguồn gốc, xuất thân, số phận... nhưng có lẽ nhờ thế mà số phận họ hiện lên càng thêm bé nhỏ, tội nghiệp, ai cũng sống một cách âm thầm, nhẫn nhục, lam lũ. Văn Thạch Lam là như thế: nhẹ về tả, thiên về gợi và biểu hiện đời sống bên trong: sống trong lặng lẽ, tăm tối nhưng giữa họ không thể thiếu vắng tình người. Qua những lời trao đổi và những cử chỉ thân mật giữa họ ta nhận ra được mối quan tâm, gắn bó. Và tất cả họ dường như đều hiền lành, nhân hậu qua ngọn bút nhân hậu của Thạch Lam.

Nhưng giữa bấy nhiêu con người, nhà văn chỉ đi sâu vào thế giới tâm hồn của "hai đứa trẻ": Liên và An. Chúng chưa phải là loại cùng đinh nhất của xã hội nhưng là tiêu biểu cho những con nhà lành, đang rơi vào cảnh nghèo đói, bế tắc vì sa sút, thất nghiệp.

Không phải ngẫu nhiên tác giả lấy "Hai đứa trẻ" để đặt tên cho truyện ngắn của mình. Hình ảnh tăm tối của phố huyện và những con người tăm tối không kém, sống ở đây hiện lên qua cái nhìn và tâm trạng của chị em Liên, đặc biệt là của Liên. Mở đầu tác phẩm ta bắt gặp hình ảnh Liên ngồi yên lặng bên mấy quả thuốc sơn đen "đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị" và "chị thấy buồn man mác trước cái giờ khắc của "ngày tàn". Thạch Lam không miêu tả tỉ mỉ đời sống vật chất của họ, nhà văn chủ yếu đi sâu thể hiện thế giới tinh thần của Liên với nỗi buồn man mác, mơ hồ của một cô bé không còn hoàn toàn trẻ con, nhưng cũng chưa phải là người lớn. Tác giả gọi "chị" là vì quả Liên là một người chỉ biết quan tâm săn sóc em bằng tình cảm trìu mến, dịu dàng, biết đảm đang tảo tần thay mẹ nhưng tâm hồn Liên thì vẫn còn là tâm hồn trẻ dại với những khao khát hồn nhiên, thơ ngây, bình dị.

Ở đây, nhà văn đã nhập vào vai của "hai đứa trẻ", thấu hiểu, cảm thông, chỉa sẻ và diễn tả cái thế giới tâm hồn trong sáng của chị em Liên: hình ảnh bóng tối và bức tranh phố huyện mà ta đã nói trên kia được cảm nhận chủ yếu từ nỗi niềm khao khát của hai đứa trẻ. Tâm hồn trẻ vốn ưa quan sát, sợ bóng tối và khát khao ánh sáng. Bức tranh phố huyện hiện ra chính là qua tâm trạng này: "Hai chị em gượng nhẹ (trên chiếc chõng sắp gãy) ngồi yên nhìn ra phố..." Liên trông thấy "mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi" nhưng "chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó...". Trời nhá nhem tối, bây giờ chị em Liên mới thấy thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra... Hai chị em Liên đứng sững nhìn theo" bà cụ Thi "đi lẫn vào bóng tối... "Hai chị em đành ngồi yên trên chõng đưa mắt theo dõi những người về muộn từ từ đi trong đêm"... "Từ khi nhà Liên dọn về đây... đêm nào Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng với cái tối của quang cảnh phố xung quanh"... Đêm tối đối với Liên "quen lắm, chị không sợ nó nữa". "Không sợ nó nữa" nghĩa là đã từng sợ. Chỉ mất từ "không sợ nó nữa" mà gợi ra bao liên tưởng. Hẳn là Liên đã từng sợ cái bóng tối dày đặc đã từng bao vây những ngày đầu mới dọn về đây. Còn bây giờ Liên đã "quen lắm". Sống mãi trong bóng tối rồi cũng thành quen, cũng như khổ mãi người ta cũng quen dần với nỗi khổ. Có một cái gì tội nghiệp, cam chịu qua hai từ "quen lắm" mà nhà văn dùng ở đây. Nhưng ngòi bút và tâm hồn của Thạch Lam không chỉ dừng ở đấy. Cam chịu nhưng cũng không hoàn toàn cam chịu, nhà văn đã đi sâu vào cái nỗi thèm khát ánh sánh trong chỗ sâu nhất của những tâm hồn trẻ dại. ông dõi theo Liên và An ngước mắt lên nhìn vòm trời vạn ngôi sao lấp lánh để tìm sông Ngân hà và con vịt theo sau ông thần nông như trẻ thơ vẫn khao khát những điều kì diệu trong truyện cổ tích, nhưng vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn hai đứa trẻ như đầy bí mật, lại quá xa lạ làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát, hai em lại cúi nhìn về mặt đất, và quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn lay động của chị Tí... Nhà văn chăm chú theo dõi từ cử chỉ, ánh mắt của chúng và ghi nhận lại thế thôi. Nhưng chỉ cần thế, cũng đủ làm nao lòng người đọc. Sống mãi trong bóng tối, "quen lắm" với bóng tối, nhưng càng như thế, chúng càng khát khao hướng về ánh sáng, chúng theo dõi, tìm kiếm, chỉ mong ánh sáng đến từ mọi phía: từ "ngàn sao lấp lánh trên trời", đếm từng hột sáng lọt qua phên nứa, chúng mơ tưởng tới ánh sáng của quá khứ, của những kỉ niệm về "Hà Nội xa xăm", "Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo" đã lùi xa tít tắp; chúng mải mê đón chờ đoàn tàu từ Hà Nội về với "các toa đèn sáng trưng"; chúng còn nhìn theo cả cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng xa xa mãi...

Đó là thế giới của ao ước, dù chỉ là một ao ước nhỏ nhoi, dù chỉ như là một ảo ảnh. Không thấm đượm một tấm lòng nhân ái sâu xa, không hiểu lòng con trẻ, không có một tâm hồn nhạy cảm giàu chất thơ thì không thể diễn tả tinh tế đến thế nỗi thèm khát ánh sáng của những con người sống trong bóng tối.

Đọc "Hai đứa trẻ", ta có cảm giác như nhà văn chẳng hư cấu sáng tạo gì. Mọi chi tiết giản dị như đời sống thực. Cuộc sống cứ hiện lên trang viết như nó vốn như vậy. Nhưng sức mạnh của ngòi bút Thạch Lam là ở đấy. Từ những chuyện đời thường vốn phẳng lặng, tẻ nhạt và đơn điệu, nhà văn đã phát hiện ra một đời sống đang vận động, có bề sâu, trong đó ánh sáng tồn tại bên cạnh bóng tối, cái đẹp đẽ nằm ngay trong cái bình thường, cái khao khát ước mơ trong cái nhẫn nhục cam chịu, cái xôn xao biến động trong cái bình lặng hàng ngày, cái tăm tối trước mắt và những kỉ niệm sáng tươi...

Nét độc đáo trong bút pháp Thạch Lam là ở chỗ: nhà văn đã sử dụng nghệ thuật tương phản một cách hầu như tự nhiên, không chút tô vẽ, cường điệu, và nhờ thế, bức tranh phố huyện trở nên phong phú, chân thật, gợi cảm.

Đọc " Hai đứa trẻ" ta bị ám ảnh day dứt không thôi trước đêm tối bao trùm phố huyện và xót xa thương cảm trước cuộc đời hiu quạnh cam chịu của những con người sống nơi đây. Nhưng " Hai đứa trẻ" cũng thu hút ta bởi cái hương vị man mác của đồng quê vào một "chiều mùa hạ êm như ru" và "một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát"... Nó làm sống lại cả một thời quá vãng, nó đánh thức tình cảm quê hương đậm đà, và làm giàu tâm hồn ta bởi những tình cảm "êm mát và sâu kín".

Bạn tham khảo nha!

Giữa những bộn bề của buổi chợ phiên văn chương, giữa những đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được ví như một vị khách đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy không đưa tôi đến chân trời của phiêu du, mộng tưởng của những ái ân, khát vọng thường thấy trong văn học lãng mạn mà dẫn tôi vào giữa cõi đời rất thực bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm. Và “Hai đứa trẻ” đã đưa tôi đến mộtphố huyện nghèo khi ngày sắp tàn, sau đó bóng tối đổ xuống như trút, tràn ngập lên những kiếp người đói khổ, cơ cực, quẩn quanh và bế tắc đã bị lãng quên từ lâu.

Thạch Lam - cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn nhưng người ta lại thấy ông đứng về một phía rất riêng. Cái riêng đó có lẽ bắt nguồn từ quan điểm của ông đối với văn chương mà ta chưa quên: “văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực của chúng ta, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Nói như thế có nghĩa là, ở Thạch Lam bên cạnh cái “tài” còn có cái “tâm”. Cái “tâm” trong sáng, chứa đầy rung cảm, yêu thương với đời. “Hai đứa trẻ” được khơi từ tấm chân tình ấy, nhưng lại được bứng trồng và nuôi lớn trên mảnh đất cuộc đời đầy bất công tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Theo dòng diễn biến tâm trạng của Liên - một cô bé chưa đủ cứng cáp để làm người lớn nhưng cũng không còn sự vô tư của trẻ con nên rất tự nhiên, Thạch Lam đưa người đọc bước vào cuộc sống của phố huyện nghèo lúc chiều buông và đêm xuống và rồi người đọc tự thấm thía cảm nhận cuộc sống nơi đây đang dần tàn lụi và chìm vào tăm tối.

Ở mảnh đất này, mọi thứ đều đang ở trong trạng thái mất dần sinh khí. Không có tiếng ca vang gọi bình minh mà chỉ có tiếng than thở nặng trĩu “Chiều, chiều rồi”. Một câu văn ngắn nhưng gợi lên bao nỗi niềm, đó là lời than ngậm ngùi của Liên khi chứng kiến cảnh chiều quê đượm buồn thấm đượm, phủ kín tâm hồn cô bé. Nghe kĩ, ta lại thấy cả tiếng thương thầm của Thạch Lam dành cho bao kiếp đời tàn theo thời gian. Cứ “ngày tàn”, cứ mỗi khi “Chiều, chiều rồi” là tiếng thu không lại mòn mỏi vang ra như để gọi buổi chiều. Tiếng trống như những giọt âm thanh điểm nhịp cho từng giọt thời gian rơi tàn. Mặt trời gay gắt trong cơn hấp hối ở “phương tây” cố gắng hắt lên ánh “đỏ rực như lửa cháy” làm cho “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Phía dưới dãy tre làng đã mất đi màu xanh của sự sống, khoác lên mình tấm áo choàng đen, “đen lại và cắt rõ rệt trên nền trời”. Bóng tối dường như bắt đầu trút xuống, “mấy quả thuốc sơn đen”, mắt người “bóng tối ngập đầy dần” … “đen” và “tối” đang hòa vào nhau khiến mặt người không còn nhìn rõ nữa. Chỉ nghe bên tên “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng” theo gió nhẹ đưa vào, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng … âm thanh không khiến phố huyện huyên náo mà chỉ thấy sự tĩnh lặng của một miền hoang vu. Ngày trôi đi trong cái nắng gay gắt của mùa hè với những hoạt động mua bán thường nhật nơi phố huyện. Nhưng cứ chiều buông xuống là phố huyện lại xao xác, phô bày sự điêu tàn, mệt mỏi. Cái nghèo hiện hình trên nền chợ tàn, khi người đã về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Rồi xộc lên mùi âm ẩm được hòa từ hơi nóng ban ngày lẫn mùi cát bụi. Đó là mùi vị của nghèo khó, cái mùi rất riêng của đất, của quê hương. Giữa không gian của ngày tàn, chợ tàn là một vài người còn ế hàng đang thu dọn hàng hoá và mấy đứa trẻ nghèo ở ven chợ đang “lom khom” lượm lặt, tìm tòi thứ gì. Chúng nhặt bất kể thứ gì có thể dùng được do người bán hàng bỏ lại. Dường như cái chợ “còm” ấy là kế sinh nhai của cả người lớn và trẻ con nơi này, nhưng hỡi ơi, chợ tàn, hàng ế, chỉ còn có rác rưởi và một mùi riêng của đất nghèo. Chứng kiến cảnh ngày tàn, Liên “động lòng thương” nhưng thương thì cũng chẳng để làm gì. Vì Liên cũng “không có tiền để mà cho”... Ngày tàn kéo theo sự tàn lụi của cuộc sống.

Bức tranh phố huyện với sự xuất hiện của những con người. Họ kiếm ăn từ ngày chuyển sang đêm rồi chìm vào bóng tối, nhưng từ trong bóng tối, những con người ấy lại lục tục kéo ra, đúng là:
                                         “Lặn mặt trời lẩn thẩn mò ra
                                          Lôi thôi bồng trẻ dắt già”
                               (Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du)

Cuộc đời cứ luẩn quẩn như chiếc đèn cù, con người cứ đuổi nhau quanh trục sáng - tối. Những kiếp người tàn lần lượt xuất hiện. Đầu tiên là mẹ con chị Tí “lôi thôi” dắt nhau trong “nhá nhem tối”: “thằng bé cu xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị”. Ban ngày chị như con cò phải “đi mò cua bắt tép”, tối đến chị như con vạc kiếm ăn, chị “dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng”. Nhưng bán nước cho ai? Người ghé qua hàng nước của chị có mấy bác phu xe, phu gạo rồi người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm. Chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối còn chạng vạng đến đêm đen kịt không rõ mặt người.

Âm thầm trong bóng đêm của phố huyện là những mảnh đời bé nhỏ, cam chịu một cuộc đời tối tăm. Họ xuất hiện thoáng qua như những chiếc bóng, May nhờ có chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng thoát ẩn, thoắt hiện phía xa khiến bé An nhận ra đó là bác Siêu, “kìa hàng phở của bác Siêu đến kia rồi”. Thạch Lam đặc tả cái “bóng” của bác “mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”. Bát phở của bác Siêu là thứ quà xa xỉ đối với chị em Liên và cả những con người nơi góc phố huyện nghèo. Chính vì thế nên gánh phở của bác thành ra “ế”. Rồi lại thêm gánh hát của gia đình bác xẩm cũng đang “ế khách”: họ “ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe”. Đời sống vật chất và tinh thần nơi phố huyện đều ế ẩm, cạn kiệt.

Cuộc sống vắng hẳn những câu hát, tiếng cười. Chỉ có tiếng đàn bầu nơi bác xẩm bật lên trong yên lặng như để góp thêm sự tĩnh lặng cho phố huyện. Nếu nói không có tiếng cười thì cũng không đúng bởi trong bóng tối ta vẫn nghe tiếng cười “khanh khách” của cụ Thi điên - một người già cả, điên dại và nghiện rượu. Tiếng cười lẫn vào trong bóng tối theo từng bước chân của cụ, nhỏ dần về phía làng. Tiếng cười ấy khiến cho chị em Liên đứng sững nhìn theo, lòng bàng hoàng, run sợ nhưng cũng xót xa khó tả như vừa thấy được sự tàn lụi vì tuổi già, tàn lụi vì nghiện rượu và nghèo khó của một kiếp người tàn. Tiếng cười “khanh khách” đặt vào một kiếp người tàn đã gieo vào lòng người đọc bao thế hệ một nỗi đau day dứt, khôn nguôi.

Phố huyện với bấy nhiêu con người đang dần lụi tắt, nay thêm một gia đình nữa “bỏ Hà Nội về quê ở” vì người cha mất việc. Người mẹ “đầu tắt mặt tối” bên gánh hào xáo, còn hai đứa con trông coi “cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu”. Họ nhập vào cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, bế tắc ở nơi đây. Đây đâu phải câu chuyện riêng của gia đình hai đứa trẻ mà đây là câu chuyện của cả phố huyện nghèo bên những mảnh đời bé nhỏ, thân phận “con ong cái kiến” âm thầm tội nghiệp sống trong đêm tối.

Hình ảnh đêm tối được Thạch Lam miêu tả nhiều, cứ trở đi trở lại như một ám ảnh, day dứt trong truyện “Hai đứa trẻ”. Phố huyện nhỏ ngập tràn dưới bóng tối và đêm đen: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, Bóng tối là hiện thân của sự tù túng, ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự nghèo đói, lam lũ. Là hình ảnh của dân tộc ta trước năm 1945:

                                “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
                                 Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
                                                   (Chế Lan Viên)

“Bóng đêm” đã trở thành hướng đi tới, đi về của bao người: mẹ con chị Tí “ở trong ngõ đi ra” khi trời “nhá nhem tối”, “tối đến chị mới dọn cái hàng nước này”,...; cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần; cụ thi Điên cũng “đi lần vào bóng tối”; nhưng người về muộn, từ từ đi trong đêm”; bác phở Siêu cùng với “một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối”,... Hiếm thấy tác phẩm nào miêu tả bóng tối dày đặc như thế, đêm tối bao bọc xung quanh, vây kín những mảnh đời nhỏ bé. Những con người xuất hiện trong màn đêm tăm tối ấy đều không rõ lai lịch, quê hương bản quán. Ta chỉ thấy họ xuất hiện với công việc thường ngày tù đọng, quẩn quanh. Nhưng cái hay của Thạch Lam không nằm trong bóng tối, cái hay của ông là khắc họa được ánh sáng, những nguồn ánh sáng khác nhau trong màn đêm đen kịt tạo sự đối lập sáng - tối. Những nguồn sáng mà Thạch Lam mang tới lại vô cùng leo lắt. Đó là ngọn đèn hoa kì ở hàng nước nhà chị Tí, chấm lửa nhỏ từ bếp của bác phở Siêu, ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt lọt từng hột sáng qua phên nứa. Nguồn ánh sáng ấy không đủ xua tan màn đêm, không đủ thắp sáng cuộc đời trái lại vừa đủ biến mỗi con người thành một chiếc bóng đổ dài xuống mặt đất trong đêm đen. Cả phố huyện sống âm thầm, mòn mỏi của bóng tối, xơ xác, héo hắt trong nghèo khổ nhưng họ vẫn mơ hồ chờ đợi một cái gì tốt đẹp hơn dẫu sự chờ đợi ấy thật xa xôi và vô vọng: “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự chờ đợi ấy được thể hiện qua lời bâng quơ của chị Tí về những người khách hàng chưa ra quán chị, hay cái “nghển cổ” trông ngóng của bác Siêu khi hướng về phía ga đợi đoàn tàu, đặc biệt là tâm trạng khắc khoải của hai chị em Liên hàng đêm chờ đoàn tàu đi từ ga Hà Nội qua ga xép nhỏ phố huyện, đoàn tàu mang đến cho chị em Liên những kí ước tươi đẹp về Hà Nội, một Hà Nội tràn ngập ánh sáng với nhiều thứ nước xanh đỏ… Với một tấm lòng nhân ái, một tâm hồn nhạy cảm, Thạch Lam đã diễn tả tinh tế nỗi thèm khát ánh sáng của những kiếp người bé nhỏ đang bị lãng quên trong ga xép tối tăm, nghèo khổ. Và Thạch Lam đã để cho nhân vật của mình được hi vọng về sự đổi đời dẫu có mong manh, mơ hồ bởi chính họ không muốn cuộc sống của mình chìm trong bóng tối với sự quẩn quanh, bế tắc.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” giản dị tới mức tưởng như Thạch Lam chẳng cần hư cấu gì, chỉ cần vẽ lại những đường nét bình dị của cuộc sống thực. Cuộc sống ở một phố huyện nghèo hiện lên trên trang sách của Thạch Lam như nó vốn có. Từ những điều đơn điệu, tẻ nhạt, Thạch Lam đã phát hiện ra sự vận động của cuộc sống. Đó là bóng tối tồn tại bên cạnh ánh sáng; cái đẹp ẩn chứa trong cái bình dị; nỗi khát khao ước mơ nằm trong sự nhẫn nhục, cam chịu, tất cả đi liền với nhau. Nhờ sự biện pháp nghệ thuật đối lập đó, phố huyện nghèo đã hiện lên một cách chân thực nhất mà không cần bất kì sự tô vẽ nào cả.

Tôi đọc xong “Hai đứa trẻ” khi trời đã chạng vạng tối, xung quanh hàng xóm đã lên đèn sáng quắc. Tôi chợt giật mình, bóng tối vẫn dâng ngập trong lòng, tôi ám ảnh mãi không thôi trước cảnh đêm tối mênh mông bao trùm phố huyện và day dứt khôn nguôi một nỗi thương cảm những kiếp người mang phận “con ong cái kiến”. Nhưng tôi vẫn sẽ tin những con người bé nhỏ, cam chịu ấy sẽ có một cuộc sống khác, đầy đủ hơn, sung túc hơn nơi phố huyện nghèo. Tôi dám tin vào điều ấy, bởi Thạch Lam đã trao hy vọng cho nhân vật của mình, dù có xa xôi, mỏng manh.

#star102

Câu hỏi trong lớp Xem thêm