2 câu trả lời
́ Bn tham khaor nha
Sóng là một hình tượng đẹp của thiên nhiên được vận dụng để nói lên nhiều trạng thái của tình cảm và riêng với tình yêu thì con sóng phải mang một sắc thái đặc biệt. Không phải là con sóng nhỏ lăn tăn của ao vàng “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” (Thu điếu) hoặc như sóng gợn để nói lên nỗi buồn kéo *** “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”(Tràng Giang). Bản thân con sóng cũng có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm khi lại ồn ào, dữ dội:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Con sóng cũng như tình yêu với bao khát vọng bồi hồi, khi mạnh mẽ khi dịu em, và sóng cũng phải tìm đến tận biển cả giữa đại dương mênh mông mới thực sự tìm thấy chính mình, và nhận thức được sức mạnh và những khát khao đích thực của con sóng.
Con sóng là vĩnh hằng gắn với sự vĩh hằng của biển khơi muôn đời, con sóng của ngày xưa với con sóng của hôm nay không có gì thay đổi, vẫn dào dạt, vẫn sôi nổi như tình yêu của tuổi trẻ muôn đời vẫn bồi hồi. Xuân Quỳnh đã liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng của đại dương:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng phát triển theo những quy luật chung của đời sống xã hội và những quy luật riêng của mỗi tình yêu lứa đôi, song không dễ cắt nghĩa được đầy đủ bản chất, sự vận động và những biến hoá của tình yêu. Xuân Diệu viết:
“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.”
Tình yêu là tiếng nói của con tim nên cũng rất khó xác định một cách cụ thể những tiêu chuẩn của sự yêu thích. Xuân Quỳnh cũng đã nêu lên tính quy luật và không có quy luật của tình yêu:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.”
Thực ra: “Gió bắt đầu từ đâu” là có thể giải thích được, nhưng cái khó khăn hơn là phải giải thích và xác định : “Khi nào ta yêu nhau”, khi nào mặt biển nổi sóng, những con sóng của tình yêu.
Chính nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Diệu cũng có lúc phải nhận xét:
“Tình yêu đến – tình yêu đi, ai biết.”
Tình yêu lứa đôi thường được biểu hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và một nỗi nhớ là một tình cảm tiêu biểu nhất. Tất nhiên trong cuộc đời khi xa cách sẽ có nhiều nỗi nhớ: con nhớ cha mẹ, bạn bè nhớ nhau… Nhưng nỗi nhớ trong tình yêu lại có những đặc điểm khá riêng biệt. Nỗi nhớ được biểu hiện với nhiều màu sắc ở trong thơ, đó chính là cái chứng tích của tình yêu đích thực.
I, Dàn ý tham khảo
1, Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2, Thân bài
- Khổ 1: những nét tính cách của sóng cũng là những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu và luôn khát khao tìm kiếm tình yêu đích thực
- Khổ 2: Khát vọng tình yêu trong những trái tim trẻ
- Khổ 3,4:
- Khổ 5: Nỗi nhớ
- Khổ 6: lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu
- Khổ 7:
- Khổ 8: Những lo âu trăn trở của người phụ nữ khi yêu
- Khổ 9: Khát khao
3, Kết bài
- Khẳng định giá trị của tác phẩm
II, Bài văn tham khảo
Có thể nói, bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Tác phẩm này được viết vào năm 1967, khi tác giả có chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền. Đứng trước những con sóng nối tiếp, vô tận của biển cả, Xuân Quỳnh đã nhận thấy sự đồng điệu giữa những cung bậc, trạng thái của sóng với cung bậc tình cảm, khát vọng trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Bài thơ “Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” khi tách biệt, khi thống nhất, hòa vào làm một để diễn tả vẻ đẹp trong tình yêu của tâm hồn người phụ nữ. Đồng thời, Xuân Quỳnh đã đem đến một quan niệm mới mẻ, nhân văn về tình yêu, về con người trong những năm tháng chống Mỹ đầy khốc liệt.
Tâm hồn người phụ nữ khi yêu luôn có những cung bậc cảm xúc phong phú và khát vọng tìm kiếm tình yêu đích thực:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Hai câu thơ đầu tiên là những nét tính cách của sóng và cũng là những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Tác giả đã sử dụng những cặp từ đối lập “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ” để diễn tả những trạng thái tâm lí đặc biệt của sống. Giữa dòng biển khơi, sóng không bao giờ yên định mà luôn có trạng thái khác nhau. Khi biển giông tố, sóng tung bọt trắng xóa cuồng nộ, dữ dội. Khi trời yên biển lặng, sóng ca hát bên đại dương xanh biếc. Những điều đó không hề mâu thuẫn, đối lập mà chỉ là biểu hiện của hình tượng con sóng muôn thưở. Hơn nữa, tác giả còn sử dụng điệp từ “và” vừa để kết nối ý thơ vừa ý nghĩa khẳng định quy luật của sóng. Xuân Quỳnh đã nhận ra sự đồng điệu giữa những cung bậc cảm xúc của sóng với những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu. Người phụ nữ khi yêu có lúc dịu nhẹ tha thiết, lúc mạnh mẽ quyết liệt, lúc hiền hòa yêu thương, lúc hờn ghen giận dữ. Những điều đó không hề mâu thuẫn đối lập nhau mà chỉ là biểu hiện thống nhất trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Có lẽ phải là nhà thơ nhạy cảm tinh tế Xuân Quỳnh mới có những cảm nhận như vậy về những cung bậc trong tình yêu của người phụ nữ.
Tâm hồn người phụ nữ khi yêu bên cạnh những cung bậc cảm xúc vốn có còn là lòng khát khao tìm kiếm tình yêu đích thực:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Xuân Quỳnh đã khéo léo vận dụng nghệ thuật ẩn dụ để từ quy luật muôn sông đổ ra bể mà khơi dậy hành trình đi tìm tình yêu đích thực của trái tim phụ nữ. Nếu đặt trong mối tương quan giữa sóng và biển, sông trở nên nhỏ hẹp, chật chội, tù túng và tầm thường. Hơn nữa, sông luôn chứa đựng trong mình đầy những bí ẩn lớn lao, những khát vọng hoài bão không giới hạn. Vì vậy, sông không hiểu nổi sóng, không đáp ứng được thỏa mãn của sóng. Người con gái khi yêu cuãng vậy, luôn luôn khát khao một tình yêu cao cả, đẹp đẽ chứ không bao giờ chấp nhận cái nhỏ nhen, ích kỷ. Lâu nay, người ta luôn quan niệm người phụ nữ khi yêu luôn bị động trong tình yêu. Dẫu có yêu mãnh liệt nhưng không dám thổ lộ cứ chôn chặt tận đáy lòng trong tim. Giờ đây, người con gái trong “Sóng” đã táo bạo vượt lên trên quan niệm lạc hậu khuôn khổ cứng nhắc, chủ động giãi bày một cách trực tiếp những khao khát cháy bỏng. Không chấp nhận ngủ yên trong lòng sông chật hẹp, sóng tìm ra tận bể. Đó không phải là hành trình dễ dàng mà chất chứa trong đó biết bao gian nan, thử thách, biết bao trăn trở đắn đo. Hành trình ấy phải rất xa rất dài, phải kỳ công, quyết liệt, táo bạo dũng cảm mới có thể ra tận biển cả, mới có thể đi trọn vẹn hạnh phúc của mình. Đó cũng chính là hành trình của người phụ nữ trong tình yêu, để tìm kiếm tình yêu đích thực, tiếng nói đồng điệu không hề dễ dàng. Nếu như không còn chung sự đồng điệu trong tâm hồn thì người phụ nữ có thể dũng cảm vượt qua sự nhỏ bé, chật hẹp, tù túng để được sống trọn vẹn với tình yêu đích thực cao cả và bền vững hơn.
Người con gái trong thơ Xuân Quỳnh mạnh mẽ, quyết liệt vươn đến biển lớn tình yêu mênh mông, đến bến bờ hạnh phúc viên mãn. Qủa đến với Xuân Quỳnh, thơ Việt Nam mới có tiếng nói bày tỏ những khát khao yêu thương vừa hồn nhiên chân thành, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ. Tiếng nói ấy hết sức quyết liệt, táo bạo, mới mẻ, hiện đại.
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trong bài thơ, hình tượng “sóng” và “em” luôn song hành với nhau, nói chuyện về “sóng” cũng là để thấu hiểu tình yêu trong trái tim “em”. Trước cảm xúc dâng trào của nhân vật “em” trong thơ, Xuân Quỳnh bật lên thành một tiếng “Ôi” đầy tha thiết:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế”
Một trái tim đong đầy cảm xúc, một tiếng “ôi” chứa chan tình cảm của giây phút xuất thần thăng hoa; một tiếng “ôi” như chứa trọn tất cả những cảm xúc, tình cảm, khát khao, kì vọng nhiệt thành, nồng ấm trong trái tim người phụ nữ. Hơn nữa, hình tượng sóng lại được đặt giữa hai từ chỉ khái niệm thời gian “ngày xưa” và “ngày sau” cùng ý nghĩa khẳng định của cụm từ “vẫn thế” đã đem đến cho ý thơ của Xuân Quỳnh đầy màu sắc chủ quan. Phải chăng, nhà thơ như đang muốn nối liền quá khứ với hiện tại, nối liền “ngày xưa” và “ngày sau” để khẳng định cái bất biến, cái vĩnh hằng không chỉ của “sóng” – của tạo hóa, tự nhiên mà còn là tình yêu trong “em”. Tất cả tình yêu trong em, những kỉ niệm cảm xúc “vẫn thế”, vẫn luôn đong đầy, trọn vẹn dù trong quá khứ, hiện tại hay cả tương lai. Cả “sóng” và “em” vẫn sẽ luôn mang trong mình khát vọng trẻ trung, nhiệt huyết, sôi trào. Nếu như ngàn đời con sóng xô bờ cát thì ngàn đời khát vọng tình yêu trong em vẫn mãi cháy bỏng, thiết tha.
Sóng còn tượng trưng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Hai tiếng “bồi hồi” đặt ở đầu câu chất chứa cảm xúc đến lạ. “Bồi hồi” của tiếng sóng hay “bồi hồi” của tiếng lòng em? Trong tiếng “bồi hồi”, người ta cảm nhận được cả nỗi nhớ mong, sự xao xuyến; cảm nhận được cả sự rạo rực, sự trăn trở, lo âu. Trong tình yêu, đặc biệt là tình yêu tuổi trẻ, cái sự “bồi hồi”, những khát vọng luôn tồn tại, luôn hiện hữu. Khát vọng ấy là khát vọng yêu và được yêu; là khát vọng thấu hiểu và được thấu hiểu. Với Xuân Quỳnh, chỉ cần một trái tim chân thành, một trái tim nồng nàn, mãnh liệt mới có thể chứa đựng hết những khát vọng tình yêu muôn đời. Và đó có lẽ chính là những trái tim trẻ tuổi đang khát kháo, ngập tràn trong tình yêu. Tuổi trẻ là gì nếu không yêu và được yêu? Xuân Diệu sống trọn đời vì lí tưởng này, và Xuân Quỳnh cũng vậy, luôn trẻ, vì luôn muốn yêu và được yêu. Mượn quy luật tự nhiên, Xuân Quỳnh diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm thía về tình yêu và tuổi trẻ: còn tuổi trẻ là con khát vọng, mà khát vọng yêu thương mãi còn tức là con người mãi trẻ trung.
Khổ năm là khổ thơ có số lượng câu thơ nhiều nhất trong “Sóng”. Sáu câu thơ đứng giữa thi phẩm như một đợt sóng lòng cồn lên cao nhất từ tâm điểm của tác phẩm trong đó bốn câu thơ đầu là nỗi nhớ bờ âm ỉ, tha thiết của con sóng:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Tác giả đã sử dụng điệp từ “con sóng” lặp lại liên tiếp nhiều lần. Qua đó không chỉ tạo một giọng thơ sôi nổi phù hợp với mạch cảm xúc mà còn nhấn mạnh hình tượng con sóng đang cuộn chảy, trào dâng trong nỗi nhớ. Dưới ngòi bút tinh tế của nữ thi sĩ, những con sóng ấy trở nên có hồn hơn, chất chứa những suy tư, tình cảm như một con người thực sự. Đó là nỗi nhớ da diết, nỗi nhớ cồn cào về bến đỗ thân thương “bờ”. Bằng biện pháp nhân hóa đặc sắc với động từ “nhớ”, người đọc dường như có thể cảm nhận được một nỗi niềm đau đáu ẩn hiện trong hình hài con sóng biển. Đặc biệt hơn nữa, Xuân Quỳnh còn sử dụng cặp từ đối lập giàu sức gợi “trên mặt nước”–“dưới lòng sâu”, “ngày”-“đêm” vừa tạo nên cấu trúc song hành, đối xứng vừa khiến cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, nhạc điệu thơ nhịp nhàng nhưng trên hết là để nhấn mạnh nỗi “nhớ bờ” khôn nguôi của sóng. Dù ở bất cứ nơi đâu, dù đang ngủ yên dưới lòng biển sâu thẳm hay vận động trên đại dương bao la thì con sóng vẫn luôn “nhớ bờ”, vẫn luôn hướng về nơi phương xa, về nơi dừng chân bình yên của mình. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong hình tượng con sóng và nó dường như bao trùm lấy cả không gian mênh mông của biển cả, kéo dài miên man không dứt theo thời gian. Dù trong ngày êm ả hay đêm vắng lặng, con sóng vẫn thao thức “không ngủ được”. Nữ thi sĩ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa đầy tinh tế, giàu tính biểu cảm. Nỗi “nhớ bờ” ấy phải cồn cào, da diết như thế nào mới có thể khiến con sóng “không ngủ được”? Không còn là thứ vô tri, vô giác nữa mà con sóng ấy từ lâu đã mang trong mình cả một tâm hồn, một tâm hồn biết “nhớ”, biết “không ngủ được” vì nỗi trăn trở. Đọc những câu thơ này, người ta không chỉ cảm nhận được những âm điệu sôi nổi, mãnh liệt của sóng mà còn hình dung được những con sóng đang trào dâng giữa biển cả với nỗi nhớ bao trùm cả không gian, kéo dài theo thời gian.
Từ nỗi nhớ của sóng, Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ của “em” một cách đầy tự tin, trực tiếp:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nếu người phụ nữ trước khi chỉ dám bày tỏ nỗi nhớ một cách gián tiếp thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã phá vỡ rào cản mà chủ động, trực tiếp khẳng định tình yêu của mình. Ở đây Xuân Quỳnh đã dùng từ “lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà là gan, là ruột của người phụ nữ. “Lòng em nhớ đến anh” là câu nói khẳng định giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết và đầy táo bạo. Điều này chứng tỏ nỗi nhớ và tình yêu của người phụ nữ phải rất cháy bỏng, tha thiết và mãnh liệt mới có thể có đủ can đảm để khẳng định được tấm lòng của mình một cách chủ động như vậy. Đây cũng chính là vẻ đẹp của tình yêu tự do, hiện đại. Để rồi nỗi nhớ ấy không chỉ còn là ở cảm xúc hay ý thức mà nó đã trở thành nỗi nhớ của tiềm thức: “Cả trong mơ còn thức”. Nếu chỉ hiểu theo nhận thức của lí trí thông thường thì khi mơ là đang ngủ mà trạng thái ngủ là hoàn toàn đối lập với trạng thái thức. Cho nên “cả trong mơ còn thức” là điều rất vô lí, trái với nhận thức thông thường. Tuy vậy nhưng câu thơ vẫn được ngợi ca và đón nhận. Tại sao lại như vậy? Có lẽ là bởi nó được lí giải bởi qui luật của tình yêu. Trong tình yêu, mọi thứ vô lí đều có thể trở thành hợp lí và ở đây cũng vậy. Có lẽ chỉ người đã và đang sống trong nỗi nhớ của tình yêu mới có thể cảm nhận trọn vẹn những cung bậc cảm xúc ấy. Có thể nói, Xuân Quỳnh đã đem đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc mà mới mẻ về tình yêu trong tâm hồn người phụ nữ. Đây cũng là trạng thái tình cảm tiêu biểu cho những ai đã, đang và sẽ yêu. Và đằng sau nỗi nhớ “anh” tha thiết ấy là một lời khẳng định đầy mạnh mẽ cho một tình yêu sâu sắc và cao đẹp.
Ở khổ thơ thứ sáu, ta lại bắt gặp một vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu: đó là lòng thủy chung, son sắt. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không chỉ mạnh mẽ vươn ra biển lớn tìm tình yêu mới trọn vẹn hơn, đẹp đẽ hơn mà còn là một người con gái thủy chung với tình cảm của mình, tuy sẵn sàng bỏ lại mọi thứ nhưng khi tìm được bến bờ hạnh phúc lại một lòng một dạ với người mình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Trước hết ở hai câu thơ đầu, chúng ta thấy cách diễn đạt của Xuân Quỳnh thật thú vị:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam”
Trong cách nói quen thuộc của người Việt Nam, người ta thường chỉ nói “xuôi Nam ngược Bắc”. Thế nhưng Xuân Quỳnh lại viết “xuôi Bắc ngược Nam”. Tại sao tác giả không viết theo quy luật thông thường mà bất ngờ đảo ngược như vậy? Lúc ấy, phương Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương mà ta thường nói xuôi về tiến tuyến, ngược về hậu phương. Điều này khẳng định rõ hơn những gian nan, tất tả, ngược xuôi cách trở éo le mà “em” phải đối diện. Phải chăng, nhà thơ còn muốn khẳng định cho dù vạn vật luôn đổi thay, cuộc đời luôn điên đảo, lòng người dễ thay đen đổi trắng, dễ biến ngược thành xuôi, thì người phụ nữ vẫn luôn thủy chung son sắt trong tình yêu. Nhà thơ còn sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “Dẫu…” nhằm khẳng định sự mạnh mẽ, táo bạo và chân thành của người phụ nữ khi yêu. Dù có phải trải qua tất cả những thay đổi thăng trầm, người phụ nữ vẫn luôn thủy chung với tình yêu và hạnh phúc với sự lựa chọn của mình. Dường như Xuân Quỳnh muốn phủ nhận tất cả những khó khăn, trái ngang để yêu – một tình yêu đích thực mà người phụ nữ khao khát có được.
Khép lại trong lòng người đọc là hai câu thơ:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương”
Hai câu thơ này tác giả đã cho người đọc thấy tiếng lòng da diết của người phụ nữ khi yêu. Ta không nghe thấy tiếng lòng của sóng chỉ nghe thấy tiếng lòng của em. Xuân Quỳnh đã khẳng định một cách chân thành, mạnh mẽ: Dù ra Bắc hay vào Nam, dù đi ngược hay về xuôi, dù lên rừng hay xuống biển, dù ở bất cứ nơi đâu, dù có đi tới chân trời góc bể, dù em có phải cách xa đến chừng nào thì em vẫn luôn nghĩ về anh, luôn hướng về anh. Và dù trời đất vũ trụ có bốn phương, tám hướng thì trái tim em chỉ có một phương duy nhất – phương anh. Dấu “-“ đặt giữa câu thơ, tách hai chữ “một phương” riêng thành một vế. Chính điều đó đã tạo nên điểm nhấn, sâu lắng, nồng nàn của xúc cảm thơ. Xuân Quỳnh quả thực đã rất tự tin và chân thành bày tỏ tình cảm thủy chung của mình trước anh. Đó là sự tự tin của người phụ nữ bản lĩnh dám yêu và cũng dám đi đến tận cùng để đạt tình yêu của cuộc đời.Tấm lòng thủy chng trong tình yêu là vẻ đẹp gắn liền với truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời đây cũng là phẩm chất quan trọng của tình yêu đích thực, của hạnh phúc đời thường. Ca ngợi về tấm lòng thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu đã khẳng định giá trị nhân văn cao đẹp trong thơ Xuân Quỳnh.
Nếu sự sống của tình yêu là nỗi nhớ và sự thuỷ chung thì để vượt qua chông gai thử thách, tình yêu lại cần đến niềm tin; niềm tin chính là đôi cánh để giúp tình yêu vượt qua “muôn vời cách trở”. Hai câu thơ đầu Xuân Quỳnh lại quay về đối diện với biển cả, nhưng lần này không phải là để chất vấn mình về nguồn gốc của sóng, gió hay cội nguồn của tình yêu nữa mà chính là để cất lên niềm tin.
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Hai chữ “đại dương” gợi lên sự vô cùng vô tận của biển cả mênh mông, của vũ trụ bao la. Cách nói “trăm ngàn” là ước lượng hoá, thực chất là gợi lại quy luật của tự nhiên: sóng dù “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”; là “dữ dội, ồn ào” hay “dịu êm, lặng lẽ”, dù ngày hay đêm thì vẫn là những con sóng miên man, dạt dào với cuộc hành trình tìm về bến bờ quen thuộc. Hai câu thơ sau là sự khẳng định:
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Câu thơ đầu được viết theo thể câu khẳng định: “con nào chẳng tới bờ”; câu sau như một điều kiện “dù muôn vời cách trở”. Đây là một cách viết tinh tế. Khi ta muốn khẳng định điều gì đó là chắc chắn thì ta thường khẳng định trước, nêu điều kiện sau. Điều này làm cho ý thơ bỗng trở nên đầy ắp niềm tin mãnh liệt về những con sóng, sóng dù muôn vời những khó khăn và trở ngại, dù bão tố phong ba ngăn cản cuộc hành trình thì nó vẫn một lòng một dạ hướng đến bờ, vẫn vượt qua không gian, thời gian để đến với bờ. Cũng như trong tình yêu, người phụ nữ luôn tin tưởng mình sẽ vượt qua những éo le, nghịch cảnh để đến được với người mình yêu.
Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng vào thời điểm khi nhà thơ vừa trải qua đổ vỡ trong tình yêu. Vì thế Xuân Quỳnh không dễ dàng dứt bỏ những chiêm nghiệm đầy ám ảnh về sự mong manh hữu hạn của đời người, của tình yêu:
“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”
Xuân Quỳnh quả thực tinh tế khi sử dụng nghệ thuật đối lập cùng một loạt hình ảnh thơ chỉ sự rộng dài của không gian, thời gian “cuộc đời”, “năm tháng”, “biển rộng”…để nhấn mạnh một thực tế không đổi thay. Những tưởng cuộc đời con người là dài rộng nhưng so với năm tháng vĩnh hằng, vô thủy vô chung, cuộc đời lại thành ra ngắn ngủi chẳng đáng là bao. Cũng như biển kia vẫn cậy mình dài rộng nhưng so với cái bao la của vũ trụ, so với cái mải miết trôi đi của đám mây thì biển cũng trở nên hữu hạn, nhỏ bé trong tầm tay. Ở đời chẳng có gì là mãi mãi, tình yêu và đời người lại càng không thể. Vì thế trong một bài thơ khác, Xuân Quỳnh cũng từng thú nhận rằng:
"Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn
Hôm nay yêu mai có thể xa rồi”
Khẳng định điều này không hẳn là Xuân Quỳnh bi quan, tác giả dự cảm và lo lắng thò đúng hơn. Đó là cái âu lo chính đáng của người đàn bà từng trải qua nhiều sóng gió, cái âu lo của người đàn bà biết yêu quý cuộc sống và tình yêu như máu thịt. Đúng như Phó Giáo sư – Tiến sĩ Lưu Khánh Thơ nhận xét: “Tình yêu trong thơ của chị đẹp và trong sáng. Dù có nhiều gian truân, tình cảm luôn trọn vẹn đến tận cùng như con sóng gió nhỏ đến với bờ xa. Vì lẽ đó, thơ chị đầy ắp những lo âu, e ngại”.
Với Xuân Quỳnh “Lo âu mới thực sự là điệu hồn của chị”. Nhưng càng âu lo cả nghĩ bao nhiêu, Xuân Quỳnh lại càng gắn bó với cuộc đời với tình yêu bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ “tuy – vẫn”, “dẫu – vẫn” đã khẳng định niềm tin mạnh mẽ của Xuân Quỳnh vào tình yêu và cuộc đời. Dẫu biết cuộc đời hữu hạn chỉ trong thoáng chốc tấc, tình yêu có thể mong manh tựa sương khói mây trời thì Xuân Quỳnh vẫn luôn tin vào tình yêu. Thậm chí có lúc Xuân Quỳnh tin với niềm tin mãnh liệt và tuyệt đối. Xuân Quỳnh tin vào tình yêu sẽ như những đám mây kia, mỏng manh đấy, nhỏ bé đấy nhưng vẫn mãi bay về xa, dẫu cho biển có dài rộng, dẫu cho cuộc đời có nhiều giông tố trái ngang. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh đúng là những cánh hoa trong bão, là nơi chốn nương thân cho một cánh chuồn bay trong gió.
Xuân Quỳnh không chỉ là người phụ nữ dám yêu mà còn dám tận hiến cho tình yêu và luôn có những khát khao cháy bỏng và mãnh liệt:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm ngàn con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Hai câu thơ đầu của khổ thơ thực sự là nỗi niềm băn khoăn đầy thúc bách và chân thành của Xuân Quỳnh. Câu hỏi tu từ “Làm sao được tan ra” như khẳng định những khát khao, những trăn trở tìm kiếm một phép màu nào đó giúp Xuân Quỳnh có thể chiến thắng sự hữu hạn và phù du của kiếp người, của tình yêu. Và phép màu ấy chính là sự tan ra trong khát vọng mãnh liệt và bao dung của người phụ nữ. “Tan ra” không phải là sự buông bỏ mất đi, tan ra là một ước nguyện được hóa thân, được hi sinh và dâng hiến một cách trọn vẹn cái bản ngã của mình, cho khát vọng tình yêu lớn lao. Vậy là Xuân Quỳnh không cam tâm làm một con sóng nhỏ giữa đại dương, Xuân Quỳnh muốn được hóa thân thành trăm ngàn con sóng nhỏ để có thể vượt qua mọi giới hạn chật hẹp và tầm thường, để có thể hòa nhập và thăng hoa trong tình yêu lớn lao của đại dương. Ở câu thơ này, Xuân Quỳnh chỉ ước thành trăm ngàn con sóng nhỏ trong đại dương, tưởng chừng là nhỏ bé khiêm nhường nhưng thực sự lại rất kiêu hãnh và lớn lao. Bởi không có những con sóng nhỏ thì sao có biển lớn. Cũng như không có em thì không thể có tình yêu đôi ta. Đó là cách khẳng định tình yêu khiêm nhường mà mãnh liệt của người phụ nữ luôn có những khát vọng tình yêu lớn lao. Với Xuân Quỳnh, biển rộng dài là thế, tình yêu mong manh là thế nhưng bà biết cách để hóa giải nó. Tình yêu chỉ thực sự mong manh nếu đó là tình yêu vị kỉ và tầm thường. Tình yêu sẽ bền chặt lớn lao khi tình yêu ấy đủ lớn, đủ bao dung để hòa nhập tình yêu cá nhân với tình yêu cuộc đời lớn lao.
Tình yêu hòa nhập để lớn mạnh nhưng khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh không dừng lại ở sự hòa nhập trong không gian đại dương. Xuân Quỳnh còn khao khát một tình yêu, tình yêu ấy phải “ngàn năm còn vỗ”. “Ngàn năm” là từ chỉ số lượng lớn, lớn hơn cả thời gian “trăm năm” của đời người. Đó là thời gian mãi mãi vĩnh hằng và bất biến. Đời người có thể hữu hạn nhưng khát vọng tình yêu là vô hạn. Bởi Xuân Quỳnh đã từng khẳng định “Biết yêu anh cả khi chết rồi”. Khát vọng của Xuân Quỳnh không đồng thuận với sự sống và cái chết. Khi ta biết yêu, sống hết mình thì tình yêu có thể vượt qua mọi giới hạn để hòa nhập vào cái vô biên của đất trời, của thời gian. Xuân Quỳnh dường như muốn bất từ hóa tình yêu, muốn tình yêu tồn tại vĩnh hằng bất biến trong mọi thời gian, không gian của cuộc đời.
“Sóng” là một tác phẩm thành công vang dội của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ tất cả những cung bậc trong tình yêu, thể hiện tình cảm son sắt, thủy chung, tha thiết, cao thượng cùng bao nỗi nhớ thương, niềm tin yêu vào tình yêu cao cả không chấp nhận một tình yêu tầm thường và nhỏ hẹp. Khat vọng một tình yêu cao đẹp thủy chung. Phải có một tâm hồn thủy chung thì mới có những vần thơ đẹp và lung linh đến vậy. Xuân Quỳnh đã góp một hơi thở đắm say, một tiếng sóng đẹp đẽ làm tươi thắm thêm cho thi đàn hiện đại Việt Nam.