“Chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả và không mong muốn hậu quả đó xảy ra nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra” là lỗi cố ý trực tiếp? CLO2 Vì sao

1 câu trả lời

1. Khái niệm lỗi vô ý

Lỗi vô ý là lỗi trong trường hợp, chủ thể khi quyết định thực hiện hành vi không ý thức được hành vi đó sẽ là hành vi có tính chất phạm tội nhưng có đủ điều kiện ý thức được.Lỗi vô ý là một trong hai loại lỗi theo Luật hình sự Việt Nam. Trong đó, lỗi vô ý có tính nguy hiểm thấp hơn. Loại lỗi này đòi hỏi các dấu hiệu: Hành vi khách quan mà chủ thể đã thực hiện là hành vi có tính chất phạm tội (hành vi có các dấu hiệu khách quan mà cấu thành tội phạm đòi hỏi); Chủ thể đã lựa chọn hành vi này do không ý thức được tính chất phạm tội của nó;

Chủ thể có đủ điều kiện ý thức được tính chất phạm tội của hành vi lựa chọn cũng như có đủ điều kiện lựa chọn hành vi khác không nguy hiểm cho xã hội.

– Lỗi vô ý theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự 2015Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra; tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.– Lỗi cố ý theo quy định tại Điều 11 Bộ luật hình sự 2015Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội; mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

2. Phân loại lỗi vô ý

Căn cứ vào lí do của việc chủ thể không ý thức được hành vi thực hiện sẽ là hành vi gây thiệt hại có tính chất phạm tội, lỗi vô ý được chia thành vô ý vì quá tự tin và vô ý do cẩu thả.

Lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp vô ý, trong đó chủ thể sở dĩ quyết định thực hiện hành vi vì đã loại trừ khả năng hành vi đó sẽ gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Đây là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hậu quả thiệt hại nhưng sau khi cân nhắc đã loại trừ khả năng hậu quả này xảy ra. Việc loại trừ khả năng này là do chủ thể đã không cân nhắc cẩn thận trong khi các điều kiện cho phép chủ thể có thể cân nhắc cẩn thận để không dẫn đến việc loại trừ khả năng gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi một cách thiếu cơ sở đầy đủ.

Lỗi vô ý do cẩu thả là trường hợp lỗi vô ý, trong đó, chủ thể đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của họ đã gây ra và việc không thấy trước đó hoàn toàn do chủ quan của chủ thể đã không có sự thận trọng cần thiết. Trong trường hợp vô ý vì cẩu thả, điều kiện đủ cho phép chủ thể có thể thấy trước và tránh được hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã gây ra. Người phạm tội đã không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội là do chủ quan của họ. Ví dự: do vội vàng đã phát thuốc nhầm cho bệnh nhân dẫn đến tử vong.

3. So sánh lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả

Căn cứ vào đặc điểm cấu trúc tâm lí của những trường hợp có lỗi vô ý, Luật hình sự Việt Nam xác định: “Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Lỗi nằm trong mặt chủ quan và là một trong những yếu tố không thể thiếu trong mọi cấu thành tội phạm. Lỗi được phân thành 2 loại là: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Trong lỗi cố ý thì có cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp còn trong lỗi vô ý thì có vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin. Bài viết dưới đây sẽ tập trung phân biệt về 2 nhóm lỗi vô ý trong pháp luật hình sự của nước ta.Về vấn đề này thì tại Điều 11 Bộ luật Hình sự 2015 có quy định như sau:- Lỗi vô ý do quá tự tin: Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.- Lỗi vô ý do câu thả: Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

So sánh lỗi vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả.

4. So sánh lỗi vô ý do cẩu thả và lỗi cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp

Tiêu chí

Cố ý trực tiếp

Cố ý gián tiếp

Vô ý do cẩu thả

Căn cứ pháp lý

Khoản 1 Điều 10 BLHS 2015

Khoản 2 Điều 10 BLHS 2015

Khoản 2 Điều 11 BLHS 2015

Khái niệm

Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

Người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xẩy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra

Người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.

Về mặt lý trí

Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội

Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện, thấy trước hành vi đó có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội

Phải thấy trước hậu quả nhưng lại không thấy trước được hậu quả đó

Về mặt ý chí

Sự lựa chọn hành vi phạm tội là sự lựa chọn duy nhất, chủ thể lựa chọn hành vi phạm tội vì chủ thể mong muốn hành vi đó

Người phạm tội không mong muốn hậu quả xảy ra, tức hậu quả xảy ra không phù hợp với mục đích phạm tội. Tuy nhiên để thực hiện mục đích này, người phạm tội để mặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà hành vi của mình có thể gây ra

Người phạm tội khi thực hiện hành vi đáng ra phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội sẽ xảy ra

Nguyên nhân gây ra hậu quả

Có sự cố ý

Có sự cố ý

Do sự cẩu thả

Trách nhiệm hình sự

Cao nhất

Cao hơn

Thấp hơn

Ví dụ

C và D xảy ra mâu thuẩn, C dùng dao đâm D với ý muốn giết D. Rõ ràng C ý thức được việc mình làm là nguy hiểm và mong muốn hậu quả chết người người xảy ra.

B giăng lưới điện để chống trộm đột nhập nhưng không có cảnh báo an toàn dẫn đến chết người. Dù B không mong muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng có ý thức bỏ mặc hậu quả xảy ra nên đây là lỗi cố ý gián tiếp

A là kế toán doanh nghiệp, khi nhập dữ liệu, A đã sơ ý bỏ sót một số 0 trong số tiền cần chuyển cho đối tác, hành vi này của A đã khiến công ty thiệt hại, trong trường hợp này, A là kế toán và phải biết được chỉ một hành vi sơ xuất cũng sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn.

5. Lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi vô ý vì quá tự tin dưới góc độ tâm lý tội phạmTheo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi 2017):Lỗi cố ý gián tiếp là trường hợp người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra (Khoản 2 Điều 10). Còn lỗi vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được (Khoản 1 Điều 11).Những trường hợp thường xảy ra nhầm lẫn trong phân biệt lỗi để định tội danh trong hoạt động tố tụng như tội Giết người (với lỗi cố ý gián tiếp) với tội Vô ý làm chết người; tội Giết người với tội Cố ý gây thương tích (trường hợp dẫn đến chết người); tội Giết người với tội Cản trở giao thông đường bộ (hành vi rải đinh, đặt vật cản trên đường bộ dẫn đến hậu quả chết người), giữa việc định tội danh về xâm phạm sở hữu và tội giết người hay chỉ định tội về tội xâm phạm sở hữu với tình tiết định khung “làm chết người”?…Điểm khác biệt lớn nhất và qua đó có thể phân biệt được nằm ở lý trí của người phạm tội thông qua việc trả lời câu hỏi người phạm tội “bỏ mặc, chấp nhận hậu quả nếu nó xảy ra” hay chỉ là “tin rằng hậu quả không xảy ra”. Chính bởi yếu tố quyết định để có thể nhận định lại nằm trong ý thức chủ quan nên cách phân biệt chính xác nhất không chỉ dựa vào lời khai của người phạm tội trong quá trình tố tụng, vào các biểu hiện khách quan như vị trí bị tấn công trên cơ thể người bị hại, mức độ của hành vi tấn công… mà còn phải kiểm chứng thông qua các biểu hiện ra bên ngoài (biểu hiện tâm lý) của người phạm tội.Dưới góc độ tâm lý, chúng ta có thể thấy diễn biến trong ý thức của người phạm tội trong suốt quá trình thực hiện tội phạm như sau:

Trường hợp 1: Vô ý vì quá tự tinTrong trường hợp này, trước khi bắt tay vào thực hiện tội phạm, người phạm tội hình dung được cả hai khả năng, đó là (1) khả năng sẽ không xảy ra hậu quả và (2) khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm. Tuy nhiên, điểm mấu chốt ở chỗ, thời điểm chính thức thực hiện hành vi, người phạm tội đã tự loại trừ khả năng xảy ra hậu quả (khả năng 2), và trong ý thức chủ quan lúc này chỉ còn lại khả năng sẽ không để lại hậu quả (khả năng 1), việc loại trừ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có thể về chủ quan do người phạm tội tin tưởng vào khả năng, kinh nghiệm của mình, cũng có thể do đánh giá các yếu tố khách quan như thời gian, địa điểm, thời tiết, thậm chí tin tưởng vào chính “xử sự” của nạn nhân… Chính bởi sự loại trừ này nên người đó mới quyết định thực hiện hành vi nguy hiểm. Vì vậy, về biểu hiện tâm lý, nếu hậu quả thực tế xảy ra thật thì người phạm tội sẽ bị bất ngờ do nằm ngoài tính toán của mình.

Trường hợp 2: Cố ý gián tiếpTrong trường hợp này, trước khi bắt tay vào thực hiện tội phạm, người phạm tội cũng hình dung được cả hai khả năng, đó là (1) khả năng sẽ không xảy ra hậu quả và (2) khả năng xảy ra hậu quả nguy hiểm. Tuy nhiên, điểm khác biệt so với vô ý vì quá tự tin ở chỗ, thời điểm chính thức thực hiện hành vi và kể cả sau đó, người phạm tội vẫn hình dung trong ý thức của mình cả hai khả năng đều có thể xảy ra và sẵn sàng chấp nhận cả hai khả năng nếu thực tế nó xảy ra. Do đó về biểu hiện tâm lý, nếu hậu quả thực tế xảy ra thật thì cũng đã nằm trong tính toán và người phạm tội hoàn toàn không bị bất ngờ.Do vậy, việc phân biệt chính xác được hai loại lỗi này có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là cơ sở để xác định tội danh đúng và qua đó đảm bảo việc quyết định hình phạt có căn cứ và đúng quy định của pháp luật./.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm