Chọn 3 văn bản tiêu biểu và phân tích biểu hiện của con người tài tử trong văn học trung đại việt nam
2 câu trả lời
1)
Nói như Nguyễn Hữu Sơn: “Trong những trạng huống bức xúc, những cảnh ngộ dễ khơi gợi niềm trắc ẩn trong tâm hồn nhà nghệ sĩ… sẽ là lúc bột khởi những rung động nghệ thuật đích thực, từ đó khởi động những suy cảm cá nhân” (3)
2.
Sự thể hiện con người trong văn học trung đại theo chiều hướng tâm hay ly tâm gắn liền với cá tính sáng tạo của nhà văn, đồng thời gắn liền với sự vận động của lịch sử. Mỗi thời đại văn học với những điều kiện lịch sử, xã hội, văn hóa riêng sẽ hình thành quan niệm nghệ thuật về con người của riêng thời đại ấy.
Có thể nhận thấy điều này qua nghiên cứu sự vận động của văn học trung đại Việt Nam trong suốt mười thế kỉ hình thành và phát triển của nó. Thời trung đại, văn học chủ yếu được thể hiện qua hai nguồn cảm hứng chủ đạo: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo.
Hai cảm hứng sáng tác này bao trùm nền văn học và hòa quyện nhau không thể tách rời. Tuy nhiên mỗi cảm hứng thể hiện rõ nét ở một giai đoạn lịch sử nhất định và quy định đặc trưng văn học của mỗi giai đoạn đó.
Cảm hứng yêu nước được thể hiện rõ nét trong văn học giai đoạn đầu (thế kỉ X – XV), sau đó trở lại trong văn học cuối thế kỉ XIX (khi thực dân Pháp xâm lược). Cảm hứng nhân đạo thể hiện rõ trong văn học từ thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX.
Sự vận động của văn học đi từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng nhân đạo bắt đầu từ sự vận động của quan niệm nghệ thuật về con người để rồi chính quan niệm này quy định sáng tác của nhà văn, chi phối việc lựa chọn ngôn ngữ, thể loại, bút pháp…
Từ thế kỉ X – thế kỉ XV là giai đoạn phục hưng và phát triển đất nước sau nghìn năm Bắc thuộc, giai đoạn này cũng là giai đoạn mà dân tộc ta không ngừng đấu tranh chống các thế lực ngoại xâm phương Bắc để gìn giữ bờ cõi. Chính vì thế, cảm hứng chính trong văn học là cảm hứng yêu nước, con người được đề cao trong văn học là con người cộng đồng - con người hướng tâm, tức là những con người sống theo những chuẩn mực đạo đức của cộng đồng (thời trung đại chuẩn mực ấy là đạo đức Nho giáo).
Hiện thực giai đoạn đầu đơn giản, không rối rắm, phức tạp nên con người trong văn học cũng không có nhiều băn khoăn, day dứt; cũng không thể hiện nhiều những ham muốn, khát vọng cá nhân.
Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người hùng tráng với tư thế lẫm liệt, lí tưởng lớn lao, khát vọng cháy bỏng, nhân cách cao đẹp trong “Thuật hoài” của Phạm Ngũ Lão; con người bi tráng dù rơi vào hoàn cảnh bi kịch nhưng nhiệt tâm cứu nước vẫn không lúc nào vơi cạn trong “Cảm hoài” của Đặng Dung; con người ưu ái, suốt đời lo nghĩ cho nước cho dân trong thơ Nguyễn Trãi…
Từ thế kỉ XVI về sau, hiện thực trở nên phức tạp hơn rất nhiều, xã hội phong kiến rơi vào khủng hoảng, các thế lực phong kiến chém giết, tàn hại lẫn nhau. Mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Vận mệnh, quyền sống của con người bị đặt bên bờ vực thẳm.
Lúc này văn học nói lên tiếng nói của mình để bênh vực, ngợi ca, yêu thương, trân trọng con người. Chính vì thế văn học chuyển từ cảm hứng yêu nước sang cảm hứng nhân văn, nhân đạo. Con người được đề cao trong văn học là con người cá nhân.
Có thể nói, quá trình vận động của hình tượng con người trong văn học trung đại đi từ chỗ giản đơn đến phức tạp, từ con người cộng đồng đến con người cá nhân với nhiều biểu hiện đa dạng đã khiến văn học có những bước phát triển vượt bậc theo hướng từ bỏ dần các yếu tố quan phương, cung đình để tìm đến với những cảm xúc chân thật, những rung động tế vi trong thẳm sâu tâm hồn.
Những con người có sự cựa quậy về cái tôi bản ngã, phản ứng lại lễ giáo phong kiến; những con người mất dần niềm tin vào những giá trị của đạo đức nhà Nho, cảm nhận được sự cô độc, lạc lõng đồng thời không ngừng khát khao về tình yêu và hạnh phúc.
Có thể kể ra một số hình ảnh con người nổi bật như: con người bi kịch, con người khát vọng trong “Truyện Kiều, “Chinh phụ ngâm”, “Cung oán ngâm”, thơ Nôm Hồ Xuân Hương…; con người khủng hoảng niềm tin trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, thơ Cao Bá Quát; con người tự phản tỉnh trong “Cung oán ngâm”, thơ Nguyễn Công Trứ….
2)
Trong thực tế thường cùng tồn tại cả hai dòng văn học (hướng tâm và ly tâm) trong cùng một tác giả văn học hay một giai đoạn văn học. Chỉ có điều là mức độ đậm nhạt, nhiều ít khác nhau mà thôi.
Ngay cả thơ văn Lý Trần chủ yếu là thơ văn chịu ảnh hưởng của triết lý Thiền Tông, các nhà sáng tác (chủ yếu là thiền sư) viết văn làm thơ thường để thuyết giảng giáo lý, thơ văn thường là những bài kệ mang đậm cảm quan Phật giáo, vậy mà trong sáng tác của những thiền sư - thi sĩ ấy, ta vẫn bắt gặp những phút giây con người ly tâm, vượt ra ngoài khuôn phép, để cho cái tôi bản thể nói lên tiếng nói của mình.
Đó là trường hợp Tuệ Trung Thượng sĩ tự do phá chấp đến mức phóng cuồng (Phóng cuồng ngâm). Đó là trường hợp của Trần Nhân Tông, vị hoàng đế thả hồn mình theo những rung động tế vi trước bức tranh chiều quê thanh đạm yên bình (Thiên Trường vãn vọng)…
Trường hợp Nguyễn Trãi là một minh chứng tiêu biểu hơn nữa cho điều này. Là một người “bình sinh độc bão tiên ưu niệm”, thơ ông nói nhiều đến trung hiếu, nói nhiều đến đạo quân thần, nói nhiều đến lý tưởng trí quân trạch dân với mong muốn xây dựng một xã hội thịnh trị có thánh đế, có lương thần. Song cũng có những khoảnh khắc, cái tôi trữ tình trong thơ ông tự do thể hiện, mê say đắm đuối trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật.
Nhìn lại toàn bộ tiến trình văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy một sự vận động không ngừng của quan niệm nghệ thuật về con người. Hình tượng con người trong văn học phát triển theo chiều hướng ngày càng mang bản sắc riêng, có sự dịch chuyển từ tuân thủ đến sáng tạo trong thể hiện khiến hình tượng con người ngày càng trở nên phong phú và giàu sức hấp dẫn hơn.
Trong văn học giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, có thể nhìn thấy một con người sử thi trong thơ Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung; một con người siêu nghiệm, vô ngã, vô ngôn, vô ý trong thơ Thiền; một con người ưu hoạn, có khí tiết giữ mình trong sạch trong thơ Trần Nguyên Đán, Chu An, Trần Quang Triều.
Sang giai đoạn thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII, văn học tập trung thể hiện con người quân quốc trong thơ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn; con người ưu thời mẫn thế trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng…
Đến giai đoạn thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, khi văn học thăng hoa đến độ viên mãn nhất của nó, thường thấy trong văn học là hình ảnh con người cá nhân với những biểu hiện cụ thể như: con người lẻ loi trong “Chinh phụ ngâm”, con người tự phản tỉnh trong “Cung oán ngâm khúc”, con người bản năng trong thơ Hồ Xuân Hương, con người cô đơn trong “Truyện Kiều”…
Tuy nhiên “cả Đạo, Phật, Nho, tam giáo đều chủ trương lý thuyết phá ngã, vô ngã, vô kỷ, nhưng không hề là một sự diệt ngã tuyệt đối. Trái lại, tất cả đều dựa vào phẩm chất cá nhân để giải phóng cho cái ngã nội tại khao khát tự do được bước sang một thế giới khác, không gò bó, tạm bợ”(2).
Điều này khiến văn học trung đại, tuy chịu sự quy định chặt chẽ của tính quy phạm nhưng con người cá nhân vẫn được thể hiện một cách phong phú, sinh động.
Văn học trung đại Việt Nam tồn tại trong thế lưỡng phân thành hai thành phần chính: Văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Sự song hành của hai thành phần văn học này tạo nên hiện tượng song ngữ khiến văn học trung đại phát triển với những biểu hiện vừa đối lập, vừa bổ sung cho nhau, tạo nên một thế giới nghệ thuật phong phú, đa dạng: vừa mang tính qui phạm, vừa phá vỡ qui phạm; vừa cao nhã, quý phái vừa bình dị, đơn sơ; vừa tiếp thu lại vừa từ bỏ dần các yếu tố văn hóa Hán, văn học Hán.
Chịu sự chi phối của hệ thống thi pháp trung đại, đồng thời không ngừng sáng tạo theo tiếng gọi của cảm xúc bản ngã, nhà sáng tác thời trung đại giống như “người nghệ sĩ múa một tay còn tay kia bị cột vào truyền thống”.
Con người trong văn học trung đại theo đó cũng có sự thay đổi theo nhiều chiều kích khác nhau, lúc nghiêm trang trong vòng khuôn thước kinh điển, lúc bứt phá dữ dội để tâm hồn rung động và thăng hoa bằng những cảm xúc chân thật và mãnh liệt vốn có của con người.
Cần thấy rằng, đã là văn học viết thì dù là văn học trung đại hay văn học hiện đại cũng đều tồn tại bản ngã, tồn tại con người cá nhân, cá thể.
Chỉ có điều nếu xã hội hiện đại tự do, cởi mở khiến các nhà văn, nhà thơ có một cõi riêng để tự do sáng tạo, để cái tôi trữ tình tha hồ vùng vẫy, thể hiện hết những cung bậc cảm xúc của mình thì xã hội trung đại với những quy định nghiêm nhặt khiến nhà sáng tác dù muốn dù không cũng phải chịu sự ràng buộc của khuôn phép, của lề lối kinh điển.
Con người cá nhân, cá thể do đó cũng không được thể hiện một cách phóng khoáng, cởi mở như trong văn học hiện đại. Song điều đáng quý là mặc dù chịu sự chi phối của tính quy phạm, người ta vẫn nhìn thấy trong văn học trung đại những tâm hồn nghệ sĩ phá cách; biết yêu, say, rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và con người; biết sống bằng những cảm xúc riêng tư từ trong thẳm sâu con tim mình.
Các nhà văn, nhà thơ ngoài những lúc hướng về “khuôn vàng thước ngọc” vẫn tự tìm cho mình một con đường sáng tạo riêng để cái tôi cá nhân, cá thể lên tiếng.
Nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, có thể nhìn thấy hai dòng riêng giữa một dòng chung. Một dòng hướng về những chuẩn mực, hướng về những chủ đề, quan niệm mang tính công thức. Dòng này tạo nên kiểu văn học mang tính quan phương, cung đình, chủ yếu là tụng ca vua sáng tôi hiền, đề cao lễ nghĩa Nho giáo.
Nhà sáng tác quan niệm “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”, văn chương xoay quanh những chủ đề quen thuộc của đạo đức nhà Nho. Con người xuất hiện trong dòng văn học này, lẽ dĩ nhiên là con người cộng đồng, con người quân quốc… mang lí tưởng “trí quân trạch dân”, mang khát vọng xây dựng một xã hội Nghiêu Thuấn.
Dòng thứ hai vượt thoát ra ngoài khuôn phép, luật lệ để những cảm xúc thật, những tình cảm thật được thăng hoa. Ở dòng thứ hai này, con người cá nhân có dịp bứt phá, quẫy đạp bằng một cái tôi mạnh mẽ, phóng khoáng.
Nếu lấy những quy tắc, điển phạm trong mỹ học phong kiến làm tâm thì có thể xem dòng văn học thứ nhất là “dòng văn học hướng tâm” và dòng văn học thứ hai là “dòng văn học ly tâm” (Chữ dùng của PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn).
Lịch sử văn học chứng minh rằng, chỉ khi nào văn học ly tâm thì mới xuất hiện những tiếng nói nghệ thuật đích thực, mới xuất hiện những tác giả văn học lớn. Những kiệt tác để đời của những đấng tài hoa như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… phần lớn được sáng tạo trong những giây phút ly tâm của tâm hồn họ.
Nói như Nguyễn Hữu Sơn: “Trong những trạng huống bức xúc, những cảnh ngộ dễ khơi gợi niềm trắc ẩn trong tâm hồn nhà nghệ sĩ… sẽ là lúc bột khởi những rung động nghệ thuật đích thực, từ đó khởi động những suy cảm cá nhân” (3)