Cho biết vai trò của tài nguyên thiên nhiên đối với phát triển công nghiệp nước ta?
1 câu trả lời
Các lĩnh vực Tác động tích cực Tác động tiêu cực
Kinh tể – Dòng tài chính, dự trữ ngoại tệ thông qua thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư -Phổi hợp phát triển kinh tế với phát triển giáo dục, tạo việc làm, hỗ trợ phát triển nông thôn, cơ sở hạ tầng, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ – Dễ mắc phải căn bệnh Hà Lan
– Khó quản lý tỷ gía hổi đoái và lãi suất
– Dễ bị ảnh hưởng của biến dộng giá cả hàng hoá thế
giới
– Tạo rào cản phát triển các ngành kinh tế khác -Tác động đến an ninh thu nhập của người nghèo
Chính trị, xã hội, cơ sở hạ tầng – Phát triển kỹ năng người động
– Trao quyền kinh tế, chính trị
– Phát triển năng lực quản lý của địa phương
– Cung cấp an ninh lương thực
– Cung cấp các dịch vụ y tế, hạn chế tội phạm
– Phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng khai khoáng dẫn đến sụp dổ quy hoạch cơ sở hạ tầng nói chung -Thay đổi nhanh chóng kết cấu x3 hội, de doạ quyền sở hũu đất đai, dịch bệnh HIV/AỈDs phát triển.
– Rủi ro dến sức khoẻ của công nhân khai thác mỏ,
vấn đến liên quan dến giới
– Tham nhũng từ lợi ích khai khoáng
– Rủi ro đối với sự ổn định chính trị, xung đột, chiến
tranh
Môi trường – Trao quyền kinh tế làm giảm tác động cùa nghèo khổ đối với môi trường -Hạn chế nạn phá rừng để làm nhiên liệu tiêu thụ trong nước, giải phóng mặt bằng đất đai cho phát triển nông nghiệp – Rủi ro do ô nhiễm môi trường do khai thác tài nguyên (quản lý chất thải, nước, đất, đá, ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất đai, phá rừng nguyên sinh…
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Antonio M.A.Pedro (2015), Mainstreaming mineral wealth in growth and poverty reduction strategies, ECA Policy paper Policy paper No 1.
Từ những tác động tích cực và tiêu cực của tài nguyên đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, có thể phân loại các tiêu chí đánh giá tác động của tài nguyên đối với tăng trưởng kinh tế trên một số khía cạnh cơ bản sau:
Thứ nhất, đóng góp của tài nguyên đối với tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và thu ngân sách:
Các nước giàu có về tài nguyên thiên nhiên thường tạo ra các chính sách hấp dẫn để khai thác nguồn tài nguyên này phục vụ tăng trưởng kinh tế. Theo lý thuyết lợi thế so sánh, các nước thường xuất khẩu các nguồn tài nguyên có lợi thế so sánh để thu ngoại tệ về phục vụ phát triển kinh tế. Còn theo lý thuyết đầu tư quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài luôn đi tìm các nguồn lực mà trong nước khan hiếm để đầu tư, tiết kiệm chi phí trong nước. Chính phủ các nước giàu có về tài nguyên sẽ tạo lập hệ thống chính sách, môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài, bổ sung sự khan hiếm về nguồn vốn trong nước, đưa các nguồn tài nguyên trở thành của cải để phục vụ tăng trưởng và phát triển. Thuế là công cụ trực tiếp để các chính phủ áp dụng đối với các doanh nghiệp nước ngoài, và nguồn thuế này sẽ làm cải thiện ngân sách quốc gia.
Thứ hai, tài nguyên tạo việc làm và cải thiện thu nhập:
ILO ước tính ngành khai thác tài nguyên trên thế giới thu hút từ 22-25 triệu người lao động, chiếm khoảng 1% lực lượng lao động toàn cầu (ILO 2007). Ở các nước giàu có tài nguyên, tỷ lệ người dân tham gia lao động trong các ngành khai thác tài nguyên là cao hơn rất nhiều, bởi chính phủ và nhà đầu tư nước ngoài đều có xu hướng tập trung khai thác và mở rộng sản xuất trong những ngành này. Thông thường, các mỏ tài nguyên thường phân bố ở những vùng xa xôi, hẻo lánh, khó khai thác, do vậy việc khai thác các mỏ tài nguyên này tạo điều kiện thuận lợi cho việc xoá đói giảm nghèo ở các vùng này mà các khu vực kinh tế tư nhân trong nước không thể thực hiện được. Chính phủ, các nhà tài trợ, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ giúp các vùng giàu có về tài nguyên phát triển nhanh hơn, người dân trong vùng sẽ có cơ hộỉ việc làm và nâng cao thu nhập.
Thứ ba, tài nguyên đem lại các tác động môi trường, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:
So với các tài nguyên có khả năng tái tạo, các nguồn tài nguyên không tái tạo như kim loại, quặng, dầu mỏ khí đốt không cần nhiều đến việc sử dụng đất đai để khai thác. Tuy nhiên, khai thác các loại tài nguyên này có thể làm ô nhiễm nguồn nước, phá huỷ môi trường sinh thái và tạo ra sự cạn kiệt không còn khả năng khai thác cho thế hệ tương lai. Tác động đến môi trường khi khai thác tài nguyên còn thể hiện ở các khía cạnh tiêu dùng năng lượng và nước, ô nhiễm không khí, nước và đất đai, cạn kiệt môi trường sinh thái ở các dòng sông, đáy biển. Chính vì vậy, để hạn chế các tác động tiêu cực của tài nguyên, các nhà kinh tế học khuyến cáo các nước cần phải lập kế hoạch tốt hơn để đánh giá tác động về môi trường, quản lý môi trường, quản lý các mỏ tài nguyên để khai thác hiệu quả và bền vững.
Thứ tư, “lời nguyền tài nguyên ” và những vấn đề cần tránh trong khai thác tài nguyên phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Kinh tế học về tài nguyên cho rằng tài nguyên thiên nhiên thường có xu hướng trở thành “lời nguyền” hơn là đem lại lợi ích cho tăng trưởng kinh tế bởi một số lý do sau:
Tài nguyên (đặc biệt là tài nguyên không tái tạo) thường coa xu hướng loại bỏ các nhà sản xuất ra khỏi lĩnh vực hoạt động của mình khi các nguồn tài nguyên này bị khai thác cạn kiệt không còn khả năng tái tạo. Nguồn tài nguyên được các tác giả gọi là “ngành đi vào bước đường cùng” (dead end).
Khai thác tài nguyên thường tạo ra tăng trưởng kinh tế thấp bởi các ngành này thường sử dụng công nghệ thấp, không khuyến khích tăng năng suất lao động, không tạo được động lực để nền kinh tế chuyển dịch sang các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn.
Tài nguyên thiên nhiên thường đi theo chu kỳ “bùng nổ và phá vỡ” (boom and bust) bởi nó chịu tác động của biến động giá cả trên thị trường thế giới, khiến xuất khẩu tài nguyên luôn phụ thuộc vào thị trường bên ngoài, ảnh hưởng đến nguồn thu ngoại tệ, thu ngân sách và các mục tiêu tăng trưởng khác.
Tài nguyên hay phải chịu tác động của “căn bệnh Hà Lan” (Dutch disease)