Cảm nhận về hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện trong đoạn trích sau: Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ. Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ. Chi nhọc quan quản gióng trống kì trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

2 câu trả lời

trôi qua một thế kỉ tiếng tới thơ Đồ Chiểu vẫn còn vang vọng mãi trong trái tim mỗi người Việt Nam yêu nước. Bởi trong cuộc đời cầm bút của mình, ông đã để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm có giá tri về nội dung lẫn nghệ thuật: Lục Vân Tiên, Văn tế Trương Định, Ngư Tiều y thuật vấn đáp, Thơ Điếu Phan Tòng, Chạy giặc…và đặc biệt không thể nào không kể đến một tác phẩm được Nguyễn Đình Chiểu viết để bày tỏ nỗi thương tiếc đối với những người nông dân nghĩa sĩ dũng cảm chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc thân yêu – “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Tác phẩm đã khắc họa một hình tượng thật đẹp về người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp.

Nửa cuối thế kỉ XIX là giai đoạn biến động mạnh mẽ của dân tộc ta, được đánh dấu bằng cuộc xâm lược của Thực dân Pháp. Cảnh nước mất nhà tan, muôn dân đau khổ khiến cho bao người phải rơi lệ, bao sĩ phu yêu nước phải cầm bút. Bài “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ra đời trong một thời đại như thế. Tác phẩm được viết theo thể loại văn tế – một thể loại thường dùng riêng các tác phẩm văn học thể hiện tấm lòng đối với người đã khuất: Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du,…Văn tế sử dụng lối văn biền ngẫu, từng vế sóng đôi tạo nên sự nhịp nhàng cân đối gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc.

Khi đọc “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” ta không chỉ thấy ở đó tấm lòng cảm phuc kính trọng đối với những người nghĩa sĩ mà còn bắt găp một bức tranh chân thực về cuộc sống, cuộc đời của họ – những người nông dân khoác áo nghĩa binh. Mở đầu bài văn tế người đọc bắt gặp ở đó hoàn cảnh của cuộc chiến đấu và ý nghĩa cao cả của sự hi sinh:

“ Súng giặc đất rền; Lòng dân trời tỏ

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận  

nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”

đứng trước vận nước nguy nan,Thưc dân Pháp giày xéo lên quê hương khiến nhân dân:

“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất tổ bầy chim dáo dát bay” 

thử hỏi lòng dân ai không oán giận? Đứng trước hoàn cảnh đau thương ấy, không phải ai cũng dũng cảm đứng lên tiêu diệt kẻ thù. Chỉ có những người nông dân vốn yêu chuộng hòa bình, yêu nước họ mới dũng cảm quên mình dấn thân vào cuộc chiến đấu không ngại hi sinh.

Người nông dân Nam Bộ vốn hiền lành chất phác chỉ biết  “ cui cút làm ăn” nhưng vẫn “ toan lo nghèo khó”. Riêng từ “ cui cút”  thôi cũng đủ độc giả hiểu được cuộc sống của họ. Họ làm việc một cách chăm chỉ, lặng lẽ nhưng chẳng ai đoái hoài. Cuộc sống của họ vốn “ một nắng hai sương ”, “ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” để làm ra hạt lúa, củ khoai lo từng bữa ăn. Cái cuộc sống nghèo khổ ấy khiến họ hăng say lao động hơn, không hề biết đến binh đao:

“Chưa quen cung ngựa, đâu đến trường nhung; chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”

Đôi bàn tay họ chay sạn vì cần cù lao động cầm cuốc cầm cày chứ không phải vì cầm súng. Trong tay họ không có vũ khí làm sao mà ra trận đánh giặc được? Họ luôn mong chờ tin tức của triều đình nhưng đã mười tháng rồi nào đâu cũng chẳng thấy: “ Tiếng phong hạc phập phòng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời han trong mưa”. Họ luôn sống trong nỗi phập phòng lo sợ biết tới khi nào: “ Thánh đế ân soi thấu” để họ được nhận “ Một trận mưa nhuần rửa núi sông”. Tuy vẫn người nông dân ấy trong hoàn cảnh đất nước bị xâm lăng Nguyễn Đình Chiểu đã nhìn thấy ở họ một sức sống tiềm tàng,họ mang trong mình dòng máu nóng của lòng căm thù mãnh liệt:

“ Bữa thấy bòng bong che lớp trắng, muốn đến ăn gan; ngày xem ống 

khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”

“… mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”

Một hình ảnh so sánh rất gần gũi “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Cỏ đối với nhà nông là kẻ thù nguy hiểm bởi nó sẽ đe doạ và cướp đi sự no ấm, sự bội thu mùa màng khiến gia đình họ sẽ nghèo đói hơn.Và Thực dân Pháp cũng vậy, chúng là kẻ thù “ không đội trời chung” bởi chúng cướp ruộng vườn, tàn sát nhân dân ta.

Không chỉ vậy Nguyễn Đình Chiểu còn phát hiện ra một phẩm chất cao quý ở người nông dân bình dị chất phác ấy là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc, quê hương. Họ sẵn sàng “ làm quân chiêu mộ” không ngại khó khăn nguy hiểm luôn đến với họ bất kì lúc nào. Với lòng yêu nước họ chẳng thèm “ trốn ngược trốn xuôi”, cũng “ chẳng đợi ai đòi ai bắt”. Họ là nghĩa binh nhưng không hề có áo giáp, trên tấm thân ấy chỉ là một manh áo vải – manh áo nâu bạc màu của đất, màu quê hương đậm đà. Họ cũng không có súng, không có khiên, chỉ chiến đấu với lưỡi dao phay, ngọn tầm vong, với “ hoả mai đánh bằng rơm con cúi”. Trong khi đó Thực dân Pháp nào là tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ. Mặc dù có sự chênh lệch quá lớn về lực lượng, vũ khí nhưng trong hoàn cảnh ấy họ phải “ quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Quả thật trời không phụ lòng người, họ đã giáng đầu bọn thực dân và bè lũ bán nước một đòn chí mạng: đốt nhà thờ, chém rớt đầu quan hai họ, khiến chúng phải run sợ “ mã tà, ma ní hồn kinh”.

Người nghĩa sĩ biết rằng bước vào chiến trường tức là đối diện với tử thần nhưng họ vẫn dấn thân vào với tâm hồn thanh thản. bởi họ đã gác sang một bên chuyện gia đình vợ con trong lòng họ lúc này chỉ có ánh sáng của yêu nước và ý chí của lòng căm thù. Và  ánh sáng ấy đã chỉ lối cho họ dũng cảm chiến đấu để rồi cũng thanh thản hi sinh như “cày xong thửa ruộng”. Họ đã ngã xuống trên chính quê hương của mình. Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ ấy khiến cho bao người thân của họ phải đớn đau: mẹ xa con, vợ xa chồng, con xa cha… . Ôi! Còn gì đau đớn hơn: “ Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Họ đã trở thành người anh hùng áo vải kiên trung bất khuất như nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng ca ngợi:

“ Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”       

Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện ra phẩm chất cao quý của người nghĩa sĩtiềm ẩn đằng sau manh áo vải, đằng sau cuộc đời vất vả lam lũ ấylà tinh thần chiến đấu không ngại gian khổ, hi sinh vì nhân dân, vì Tổ quốc, họ bổng chốc “ Rũ bùn đứng dậy sáng loà” ( Đất nước – Nguyễn Đinh Thi). Nếu không có một trái tim nhân hậu, một tấm lòng nồng nàn yêu nước thì Nguyễn Đình Chiểu đã không cho chúng ta sống lại những giây phút hào hùng của dân tộc. Những người nghĩa sĩ họ thật sự đã ra đi mãi mãi nhưng sự hi sinh của họ góp phần điểm tô thêm sắc thắm cho sợi chỉ đỏ của lòng yêu nước đã xuyên suốt lịch sử dân tộc ta.

Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ làm nên thành công lớn của Nguyễn Đình Chiểu qua bài văn tế. Nguyễn Đình Chiểu không viết về họ bằng những lời thơ trang trọng, ngôn ngữ trau chuốt mà khắc hoạ bằng nét vẽ gần gũi giản dị, chat phác như chính những người nông dân Nam Bộ. “ Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thật sự là một khúc ca bi tráng về hình ảnh của người nông dân nghĩa sĩ anh hùng trong chiến đấu đồng thời là tấm lòng khâm phục cùng sự thương tiếc của nhà thơ đối với họ. Người nông dân nghĩa sĩ ấy gợi lên trong lòng mỗi chúng ta liên tưởng về hình ảnh người nông dân trong thơ ca hiện đại:

“ Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Tôi với anh đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Áo anh rách vai

Quần tôi có hai mảnh vá

Chân không giày

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” 

Hay ta bắt gặp người nông dân ấy trong bài “ Nhớ” của Hồng Nguyên:

" Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “một hai”

Súng bắn chưa quen

Áo vải chân không

Đi lùng đánh giặc”

Nói tóm lại, với “ Văn tới nghĩa sĩ Cần Giuộc” , Nguyễn Đình Chiểu đã tạc vào thời gian bức tượng đài nghệ thuật ngôn từ hết sức đặc sắc về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong buổi đầu chống Pháp. Sự thành công ấy một lần nữa đã khẳng định tài năng của Nguyễn Đình Chiểu – ngôi sao sáng trên bầu trời văn học nghệ thuật, một nhà thơ, một nhà văn yêu nước vĩ đại của dân tộc trong thời kì đầu chống Pháp. Qua hình tượng người nông dân nghĩa sĩ, chúng ta càng thêm yêu quý, trân trọng vẻ đẹp của con người Việt Nam – những con người giàu lòng yêu nước sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc Việt Nam thân yêu.

Hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. Những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với kẻ thù lớn mạnh với " đạn nhỏ, đạn to", "tàu thiếc, tàu đồng" với đội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí để họ dùng chống lại chỉ là "một manh áo vải", "một ngọn tầm vông", chỉ có " dao phay" và chỉ là những "hỏa mai đánh bằng rơm con cúi". Thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. Cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy. Tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm