Cảm nhận của anh/chị về diễn biến tâm lí , hành động của Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ và chạy trốn khỏi Hồng Ngài . Từ đó, hãy liên hệ với cảnh ngộ bị trói của Mị trong đêm tình mùa xuân và nhận xét về sự vận động trong số phận, tính cách của nhân vật và tư tưởng của nhà văn.

2 câu trả lời

– Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp: Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ.

Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).

 – Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra: Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.

– Tìm hiểu vào truyện, ta thấy Mị là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân, cuộc sống tủi nhục hơn trâu ngựa: “Bây giờ thì Mị cũng tưởng mình là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Tâm lý cam chịu, buông xuôi, cách sống âm thầm, lặng lẽ đã in dấu sâu đậm lên dáng vẻ bên ngoài của Mị: “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Cô gái trẻ ấy chỉ biết “ngồi trong cái lỗ vuông ấy trông ra đến bao giờ chết thì thôi”.

 Chuyển đoạn. Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Đúng như Tô Hoài nhận định “Kỳ lạ thay, dẫu trong mọi cùng cực đến thế, mọi thế lực của tội ác cũng không tiêu diệt được sức sống con người. Đói khổ, lay lắt, nhục nhã, Mị vẫn sống, âm thầm, tiềm tàng mãnh liệt”.

2.2. Sức sống tiềm tàng của Mị cũng như diễn biến tâm trạng của nhân vật này bắt đầu đến từ những tín hiệu mùa xuân, tín hiệu đêm tình:

– Thiên nhiên mùa xuân tác động đến Mị: đó là một mùa xuân rộn rã âm thanh, sắc màu của “váy hoa xoè như con bướm sặc sỡ” hoà trong “gió rét thổi vào cỏ gianh vàng ửng”; tiếng trẻ đợi tết chơi quay cười ầm trên sân trước nhà. Chính cái náo nức của đất trời cũng là cái náo nức của lòng người.

– Khi nghe tiếng sáo gọi bạn “lấp ló ngoài đầu núi”: Mị thấy trái tim mình “thiết tha, bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm” lời bài hát của người đang thổi sáo. Tiếng sáo ấy đã lâu rồi không thổi, bài hát ấy từ lâu cũng đã quên. Nhưng hôm nay Mị vẫn nhớ, vẫn thuộc, vẫn nhẩm thầm. Vậy là Mị chưa có nghĩa đã hoàn toàn vô cảm. Hay nói đúng hơn, chính tiếng sáo là tác nhân đã lay động sâu xa tâm hồn Mị và đánh thức quá khứ cùng hiện tại của Mị. Tiếng sáo là một ẩn dụ cho tự do, cho tuổi trẻ và ký ức đẹp tươi của cô gái trẻ người Mèo. Tiếng sáo cũng chính là men tình đã đánh thức tâm hồn và lý trí của Mị.

2.2. Sau khi nghe tiếng sáo: “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”.Đây thực chất là một “cuộc nổi loạn nhân tính” của Mị. Cách uống ấy là sự dồn nén của những ẩn ức, phẫn uất nên uống rượu mà cứ như nuốt cay nuốt hận vào lòng. Rượu làm Mị say “ngồi trơ một mình giữa nhà”. Nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Mị đi đi về về giữa hai thế giới: quá khứ và hiện tại; tỉnh và say…. Mị nhớ về thời con gái của mình “ngày trước Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhưng đối lập với ký ức tươi đẹp ấy là hiện tại đầy tủi nhục của Mị “A Sử chẳng bao giờ cho Mị đi chơi tết”.

2.3. Khát vọng tự do, hạnh phúc còn được thể hiện qua tâm trạng của Mị khi ở trong buồng.

          Căn buồng là địa ngục, ngoài kia là thiên đường. Thiên đường và địa ngục chỉ cách nhau có một ô cửa bằng bàn tay. Nhưng sự tủi nhục không ngăn được lòng yêu tự do của Mị. Bởi: “đã từ nãy Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Những từ ngữ như “phơi phới”, “đột nhiên vui sướng”… như diễn tả tận sâu thẳm niềm khao khát của Mị. Mị nhận ra “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Câu văn sử dụng phép điệp: trẻ lắm, còn trẻ,…kết hợp kiểu câu đơn ngắn làm nhịp điệu câu văn dồn dập, góp phần cho thấy tình yêu tự do và ý thức về bản thân chưa bao giờ bị dập tắt trong Mị. Nó giống như hòn than âm ỉ cháy trong lớp tàn tro giờ có dịp bùng cháy.

Mị lại tủi thân khi nghĩ về A Sử: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Như vậy, khi linh hồn đã trở về, Mị không chỉ ý thức được giá trị của tinh thần mà còn ý thức được hoàn cảnh sống nghiệt ngã. Muốn chết cũng là sự thể hiện rất mãnh liệt sức sống tiềm tàng ẩn chứa trong tâm hồn cô gái Mèo. Nhưng trong cảm xúc đầy bi kịch và sự tuyệt vọng ấy, tiếng sáo lại đến: “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường”. Tiếng sáo đầy mê hoặc, quyến rũ, như lôi kéo Mị, đưa Mị từ vực sâu của tuyệt vọng thăng hoa trở lại cùng khát vọng tự do. Có thể nói: chính tiếng sáo làm Mị ý thức sâu sắc hơn bi kịch của mình, từ đó tự đánh thức mình bằng khát vọng tự do.

2.4. Khát vọng tự do không chỉ tồn tại trong suy nghĩ mà còn thể hiện trong hành động: “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào dĩa đèn cho sáng… Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi…Mị cuốn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách… Mị rút thêm cái áo”. Đây chính là sự “nổi loạn” trong Mị với khát vọng tự do trào sôi, mãnh liệt. Câu văn được ngắt bởi nhiều dấu phẩy, nhịp gấp, nhiều động từ được huy động: lấy, xắn, bỏ, đi chơi, cuốn lại tóc, lấy váy hoa, rút thêm cái áo… làm cho những hành động của nhân vật trở nên mạnh mẽ, cương quyết, táo bạo. Đó là lúc ngọn lửa khao khát tự do đang cháy lên trong Mị, bất chấp sự hiện diện của A Sử. Giờ đây, bóng đêm của cường quyền bạo ngược và thần quyền đã không thể nào vùi dập được Mị. Bởi khát vọng tự do trong Mị đang lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.

– Kể cả lúc bị trói. Mị cũng không biết mình đang bị trói. Dù bị vùi dập phũ phàng, khát vọng tự do trong Mị không hề mất đi. Thể xác Mị nằm đây giữa bốn bức tường lạnh lẽo, nhưng tâm hồn Mị đã đi theo tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình, Mị vẫn “đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Bởi vậy khi tiếng sáo nhập vào hồn Mị – “vùng bước đi”. Là lúc dây trói siết lại đau nhức. Cơn đau thể xác đã đánh thức Mị, rồi Mị tỉnh. Tiếng sáo vụt biến mất, chỉ còn “tiếng chân ngựa đạp vào vách”. Tô Hoài đã khéo léo lồng vào chi tiết này âm thanh của tiếng chân ngựa. Tiếng sáo là âm thanh của giấc mơ; tiếng chân ngựa là âm thanh đau buồn của thực tại. Thực tại đập vỡ giấc mộng làm tiêu tan tiếng sáo. Âm thanh tiếng chân ngựa đánh thức Mị, đập vỡ cả giấc mơ của Mị, kéo Mị từ thiên đường trở về địa ngục. Nỗi đau thể xác ngay lập tức chuyển hoá thành nỗi đau tinh thần vì Mị chợt nhận ra: “Mình không bằng con ngựa”.

Như vậy, cuộc trỗi dậy thứ nhất của Mị không thành, Mị không thoát khỏi cảnh ngục tù trần gian nhưng ít ra Mị cũng đã sống lại những thời khắc tươi đẹp của tuổi trẻ. Sức sống của Mị, sự hồi sinh của Mị được đặt trong một thử thách khắc nghiệt, một hiện thực phũ phàng nhưng qua đó lại càng khẳng định một chân lí rằng: sức sống của con người dù bị dẫm đạp, bị trói chặt nhưng nó không chết mà luôn âm ỉ cháy, chỉ gặp dịp là bùng lên mạnh mẽ. Đúng như Lỗ Tấn đã từng nói: “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai”. Hành động của Mị tuy bột phát nhưng sẽ hứa hẹn một tương lai bừng cháy ở phía trước. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của nhà văn Tô Hoài.

3. Nghệ thuật

Nhà văn Tô Hoài xây dựng nhân vật Mị với nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc. Giới thiệu nhân vật tự nhiên mà ấn tượng, kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Đặc biệt tâm trạng và hành động khá phức tạp của Mị được diễn tả, lí giải một cách cụ thể, hợp lí. Biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi. Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc, sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình, đậm chất thơ.

1. Khái quát

         – Xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.

         – Khái quát trước đoạn kết

       Mị là cô gái trẻ đẹp, giàu tài năng của núi rừng Tây Bắc. Vì món nợ cho vay nặng lãi của cha mẹ, Mị buộc phải làm con dâu gạt nợ trong nhà thống lý. Cuộc sống thống khổ của chốn địa ngục trần gian khiến Mị chai sạn, vô cảm. Đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống trỗi dậy, Mị uống rượu, thổi sáo, nhận thức được tuổi trẻ. Mị thèm đi theo những cuộc chơi những đám chơi. Nhưng A Sử đã chặn đứng khát vọng đó của Mị bằng một thúng sợi đay, hắn trói Mị vào cột. Mị không cảm thấy bị trói, tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng gọi đêm tình. Chính sức sống đêm tình năm ấy đã tạo điều kiện cho sự bừng tỉnh nhận thức và cháy bùng lên ngọn lửa giải thoát cho A Phủ sau này. Vì để hổ bắt mất một con bò nên A Phủ phải chịu trói, chờ chết. Cha con nhà thống lí đã trói A Phủ vào cột. A Phủ đang rơi vào tình trạng: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết.

 

2Nội dung chính

   2.1. Lúc đầu nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị không mảy may mủi lòng, không cảm xúc “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.

      Tâm trạng Mị lúc đầu là trạng thái VÔ CẢM: Sau đêm tình mùa xuân, Mị trở lại với kiếp sống chai sạn, băng giá, tê liệt về cả thể xác lẫn tinh thần. Những gì xảy ra xung quanh, Mị không cần biết, không đoái hoài, không quan tâm. Tâm hồn Mị như tê dại trước mọi chuyện. Kể cả lúc ra sưởi lửa, bị: “A Sử đánh ngã xuống cửa bếp, hôm sau Mị vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước”. Mị vô cảm với chính bản thân mình, không còn cảm nhận được nỗi đau đớn của thể xác, không còn cảm nhận được sự nhục nhã về tinh thần. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục, nhưng Mị vẫn dửng dưng, không tức giận, tủi hờn hay sợ hãi. Khi Mị vô cảm với chính mình cũng là lúc mà Mị chẳng còn thiết tha đến mọi thứ xung quanh. Mị vô cảm luôn với cả đồng loại của mình:“nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Các từ ngữ “thản nhiên”, “cũng thế thôi” cho thấy sự thản nhiên, vô tâm đến lạnh lùng, vô cảm đến tàn nhẫn của Mị. Đắng cay cho Mị – cô đã đánh mất luôn cả tình thương, lòng nhân ái mà bất cứ ở người phụ nữ nào cũng có. Mị chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Lửa cũng cô đơn, Mị cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy thức sưởi ấm cho nhau trong những đêm đông dài lạnh lẽo.

   2.2. Sau đó, tâm trạng Mị có sự thay đổi từ trạng thái vô cảm đến đồng cảm bởi giọt nước mắt của A Phủ, bởi sự thức dậy của lòng thương người:

   Có nhà phê bình cho rằng: “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Quả đúng như vậy, dòng nước mắt của A Phủ đã đánh thức và làm hồi sinh lòng thương người trong Mị. Chính nhờ ngọn lửa đêm ấy, Mị lé mắt trông sang và nhìn thấy: “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy là nước mắt của kẻ đang hấp hối, nước mắt của một thân phận nô lệ đang bất lực, tủi nhục trước số phận. Nước mắt A Phủ không chỉ chảy xuống đôi gò má xạm đen của anh mà còn chảy vào cả trái tim băng giá của Mị. Trái tim vốn chỉ còn biết giá băng lại được dòng nước mắt ấy của A Phủ chạm đến. Và giọt nước mắt ấy đã làm tan đi giá băng của trái tim Mị, đập vỡ bức tường vô hình cầm tù trái tim Mị; đã thức dậy trong Mị lòng thương người cùng cảnh ngộ. Khi lòng thương người trỗi dậy, là lúc trái tim Mị quặn đau khi “trông người lại ngẫm đến mình”. Mị chợt “nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được”. Nhà văn không nói đến nỗi đau đớn về thể xác của A Phủ, không nói đến nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả điều đó lại hiện lên tất cả qua suy nghĩ của Mị. Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính nỗi đau của mình. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

   Từ đó Mị nhận thức rõ và căm thù sự độc ác của nhà Thống lí Pá Tra: Mị thốt lên “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này”. Mị nhận ra giá trị của con người, giá trị được sống nhưng lại bị bắt chết. Từ nhận thức về thân phận con người, Mị nguyền rủa cha con nhà thống lí “Chúng nó thật độc ác”. Khi một kẻ đang trong tình trạng mất hết ý thức lại nhận ra nguyên nhân của cái khổ mà mình gánh chịu thì đúng là một cuộc lội ngược dòng của ý thức. Chắc chắn, ý thức này sẽ trỗi dậy, sẽ phản kháng mãnh liệt chứ không dừng lại ở đây.

   Từ lòng thương người và lòng căm thù, Mị nhận ra sự độc ác và bất công. Mị phản kháng mãnh liệt cả trong suy nghĩ và hành động: từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày trước, đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận thấy “chúng nó thật độc ác”, thấy “người kia việc gì mà phải chết”. Đó là sự nhận thức mang tính lý trí chứ không phải là cảm tính nữa. Mị độc thoại với chính mình: “Cơ chừng này thì chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết?” Đoạn văn có sự điệp đi điệp lại một loạt từ “chết” như chính nỗi ám ảnh của Mị về cái chết. Và đặt mình cùng A Phủ lên bàn cân của số phận. Mị thấy, Mị có chết cũng là tất yếu vì “Ta là thân đàn bà”;  “Nó đã bắt ta về cúng trình ma nhà nó rồi thì đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ đến APhủ, Mị thấy phi lí “người kia việc gì mà phải chết”. Trong suy nghĩ ấy, Mị đã nghiêng hết phần sống của mình cho A Phủ. Đó là tấm lòng nhân ái bao la của cô gái vùng cao Tây Bắc. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người thức dậy trong Mị và đang hình thành hành động. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

   Mị tưởng tượng rằng: “như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy”. Nếu như ngày trước Mị đã từng sợ chết thì bây giờ cái chết với Mị không còn là điều đáng sợ nữa. Điều gì đã làm cho Mị không sợ hãi? Phải chăng đó là lúc: Lòng thương người trong Mị đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A Phủ: “Mị lấy con dao chấu nhỏ, cắt từng nút dây mây”. Cuối cùng thì Mị đã cởi trói cho A Phủ. Nhưng hành động cởi trói ấy cũng là hành động mà Mị tự giải thoát cho chính mình. Đây cũng là sự tất yếu của quá trình đấu tranh tâm lý.

2.3. Đoạn văn cuối cùng tác giả diễn tả sự quật khởi của Mị với sức sống  tiềm tàng mãnh liệt, sức phản kháng quyết liệt:

   Đối mặt với hiểm nguy Mị cũng hốt hoảng “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Câu văn tách thành một dòng riêng nằm chơi vơi ở giữa những câu chữ ngổn ngang. Theo “nguyên lý tảng băng trôi” – hình ảnh Mị đứng lặng chỉ là phần nổi còn ẩn sau những câu chữ và hành động ấy của Mị là cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội: sống hay là chết; tự do hay nô lệ; đi hay ở ? Cuối cùng tiếng gọi tự do đã vẫy gọi Mị.

   Trong giây phút đối diện với bản án tử hình ấy lòng ham sống mãnh liệt đã thúc giục Mị chạy theo A Phủ. Đoạn văn tiếp theo miêu tả hành động Mị toàn những động từ mạnh: “vụt chạy – băng đi – đuổi kịp – đã lăn – chạy – chạy xuống – nói – thở”. Những động từ mạnh ấy đã giúp Tô Hoài nhìn thấy được nội lực và sức phản kháng mạnh mẽ cháy bùng trong Mị. “Một tia lửa nhỏ hôm nay báo hiệu đám cháy ngày mai” (Lỗ Tấn) – nếu đêm tình mùa xuân là “tia lửa nhỏ” thì hành động chạy theo APhủ của Mị thực sự đã trở thành “đám cháy”. Cuối cùng Mị đã có sự lựa chọn đúng đắn khi mà khát vọng sống trỗi dậy thật mãnh liệt, Mị vụt chạy theo A Phủ, cũng có nghĩa là chạy thoát cuộc đời nô lệ, đến với ánh sáng của tự do. Bước chân Mị như đạp đổ thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến bao năm qua đè nặng lên Mị. Mị đã nói trong cơn gió thốc “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện lòng ham sống, khát vọng tự do đến mãnh liệt trong Mị. Sau bao nhiêu năm bị thần quyền, cường quyền đè nặng làm Mị dường như quên đi tiếng nói của đồng loại thì nay Mị đã sống lại. Và câu nói đầu tiên Mị nói được cũng lại là câu nói đòi tự do, đòi được sống. Tài liệu này của thầy Phan Danh Hiếu

2.4. Nhận xét về sự thay đổi trong tâm trạng của Mị:

   Từ trạng thái vô cảm, Mị đã đồng cảm với nỗi đau thân phận của A Phủ. Đây là sự chuyển biến lớn trong tâm lý của Mị dẫn đến thay đổi cục diện của tác phẩm. Qua sự thay đổi này Tô Hoài đã khẳng định được chân lý: “sức mạnh lớn nhất mà nhân loại có được chính là lòng yêu thương con người”. Từ đồng cảm, Mị đã đi đến hành động táo bạo, quyết liệt – “cởi trói cho A Phủ”. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Đó chính là sức phản kháng mạnh mẽ của nhân vật và cũng là sự mở đường của nhà văn đưa nhân vật tới chân trời mới.

2.5. Miêu tả sự hồi sinh của Mị qua hai chi tiết trên, Tô Hoài đã mang đến những nét mới trong cảm hứng nhân đạo của văn học hiện thực phê phán sau năm 1945.

   – “Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu). Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, nhà văn Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy khi mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt mà không thế lực nào có thể dập tắt được.

   – Nhà văn đặt niềm tin vào con người, vào sức vươn dậy của nhân vật Mị. Nếu bức chân dung của những người nông dân trước cách mạng mà ta bắt gặp đâu đó như ở Chí Phèo, lão Hạc, anh Pha, chị Dậu,… tất cả đều bị dồn vào bước đường cùng. Những bức chân dung kia hoàn toàn thiếu ánh sáng của Đảng của cách mạng chiếu rọi, thì nhà văn Tô Hoài lại phản chiếu vào nhân vật của mình ánh sáng của cách mạng và  ý thức của thời đại. Nhà văn đã bước qua được những giới hạn của dòng văn học hiện thực phê phán trước Cách mạng để giải phóng số phận nhân vật.

       Mặt khác, việc Mị cởi trói cho A Phủ có thể coi như một chiếc bản lề khép mở hai thế giới. Nó khép lại thế giới tăm tối của cuộc sống trâu ngựa, nô lệ ở Hồng Ngài. Nó mở ra một cuộc sống tươi sáng ở Phiềng Sa. Hành động Mị cởi trói cho A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài đến với tiếng gọi của Cách mạng là một mốc son chói lọi trong tư tưởng nhân đạo sâu sắc và mới mẻ của Tô Hoài nói riêng và của các nhà văn sau cách mạng nói chung. Như vậy tiếng kêu cứu của Nam Cao trước cách mạng đã được Tô Hoài hồi đáp bằng cách giải phóng cho số phận con người, hướng con người đến ánh sáng của tự do.

3. Thành công của tác giả Tô Hoài trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Mị đó là: Thành công của Tô Hoài trong việc xây dựng nhân vật Mị đó là: Nhà văn có biệt tài miêu tả tâm lý nhân vật sắc sảo nhất là những diễn biến tâm trạng đầy phức tạp của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ. Nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt; cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên đầy ấn tượng; kể chuyện ngắn gọn, dẫn dắt tình tiết khéo léo. Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc và sáng tạo, câu văn giàu tính tạo hình và thấm đẫm chất thơ…nhà văn đã tạo tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn; cách miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tài tình, hợp lí  tạo nên sự thay đổi số phận nhân vật một cách thuyết phục.

III. KẾT BÀI

       Nhân vật Mị là linh hồn là hơi thở của tác phẩm. Xây dựng nhân vật Mị là một thành công đặc sắc của nhà văn Tô Hoài. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, Tô Hoài đã khẳng định sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng tự do của nhân dân lao động Tây Bắc dưới sự thống trị của bọn lãnh chúa thổ ty miền núi. Có nhà phê bình đã cho rằng: “Văn học nằm ngoài mọi sự băng hoại. Chỉ riêng mình nó không chấp nhận quy luật của cái chết”. Đúng vậy, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị và giá trị nhân đạo sâu sắc, mới mẻ của Tô Hoài cũng đã làm nên sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ”.

Câu hỏi trong lớp Xem thêm