Bàn về tình huống truyện trong tác phẩm vợ nhặt của kim lân có ý kiến cho rằng đó là một tinh thể bi kịch xót xa, lại có ý kiến cho rằng đó là khoảnh khắc thiết tha của bài ca sự sống. Từ việc phân tích tình huống truyện của tác phẩm anh chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên
2 câu trả lời
* Về tình huống truyện trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân có ý kiến cho rằng: Đó là câu chuyện có ý nghĩa hệ trọng của đời người đã bị biến thành một trò đùa. Song có ý kiến khác khẳng định ngược lại: Đó là một trò đùa đã hóa thành điều nghiêm túc, thiêng liêng, một câu chuyện hài hước ẩn chứa những bi kịch xót xa.
* Đó là tình huống độc đáo, éo le được thâu tóm trong nhan đề “Vợ nhặt”: Nhan đề hé mở một tình huống truyện độc đáo. Theo truyền thống của người phương Đông, lấy vợ là việc hệ trọng nhất của mỗi đời người, nó phải trải qua nhiều nghi lễ. Nhưng ở đây Tràng nhặt được vợ một cách dễ dàng, tình cờ, ngẫu nhiên theo đúng nghĩa đe của từ này. Người phụ nữ vốn là biểu tượng của hạnh phúc gia đình, thường được nâng niu, trân trọng. Tuy nhiên Tràng lại nhặt được vợ như cọng rơm cọng rác ven đường.
* Người như Tràng giữa thời buổi đói kém, miếng ăn trở thành vấn đề sinh mệnh lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Tình huống lạ ấy đã dẫn đến sự ngạc nhiên cho tất cả mọi người, từ người dân xóm ngụ cư đến bà cụ Tứ và ngay chính bản thân Tràng.
Dàn bài chi tiết.
MB : - Giới thiệu tác giả Kim Lân và tác phẩm : Vợ nhặt".
- Trích dẫn hai ý kiến.
TB :
1. Gải thích ý kiến.
- Ý kiến 1 : " đó là một tinh thể bi kịch xót xa" : Ý kiến nêu lên thực trạng mà tác phẩm đề cập đến, đó là nạn đói năm 1945, cái đói giết chết hàng nghìn sinh mạng, trong đó có sự àn tạ của những con gnuowif đứng bên bờ vực của cái chết như gia đình Tràng và Thị.
- Ý kiến 2 : " đó là khoảnh khắc thiết tha của bài ca sự sống." : Ý kiến đề cao niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của những nhân vật trong truyện. Khi mà cái đói đẫ bủa vây, bên bờ vực của cái chết, người ta vẫn nghĩ đến cái sống vfa khao khát sống thật tốt đẹp, thật hạnh phúc.
=> Cả hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau. Một ý kiến vừa nêu lên thực trạng xã hội và thực trạng các nhân vật. Một ý kiến lại ca ngợi và đề cao niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc của con người. Tất cả làm nổ bật và góp phần làm rõ nội dung avf ý nghĩa của tác phẩm " Vợ nhặt".
2. Chứng minh
* Ý nghĩa nhan đề "Vợ nhặt"
- “Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.
* Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.
- Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt ta thấy tình huống xuyên suốt tác phẩm thật éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
* Phân tích nhân vật Tràng
- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.
+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.
* Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung
- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.
c. Phẩm chất
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không làm bà buồn.
- Nhận xét: Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.
KB : - Khẳng định hai ý kiến nêu ra hoàn toàn sâu sắc, góp phần phản ánh đầy đủ và chính xác nội dung, giá trị của truyện ngắn " Vợ nhặt"
- Khẳng định tấm lòng nhân đạo của nhà văn Kim Lân.