1.Đối với nước ta hiện nay, việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên TG là rất cần thiết, tại sao? Khi mở rộng quan hệ hợp tác, nước ta tôn trọng theo những nguyên tắc nào? Tác dụng của việc hợp tác đó là gì? 2.Theo em, việc cải tiến, đổi mới phương pháp học tập có phải là biểu hiện của làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả không? Vì sao? 3.Viết 1 đoạn văn (5 - 8 câu) nêu cảm nghĩ của em về hậu quả của việc không biết kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc (viết 1 truyền thống cụ thể)

1 câu trả lời

1. Một số nội dung cơ bản về hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế

Hội nhập quốc tế là quá trình các nhà nước có đủ tư cách quốc gia, vùng lãnh thổ được quốc tế công nhận tiến hành các mối quan hệ với các quốc gia, tổ chức quốc tế khác để hướng đến chia sẻ nhằm mục tiêu chung đạt được lợi ích cho nước mình và các nước, tổ chức quốc tế khác về chính trị, kinh tế, văn hóa, an ninh... trên cơ sở tuân thủ các khuôn khổ chế định chung.

Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập quốc tế ngày càng được coi trọng và diễn ra trên nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội với nhiều tính chất, phạm vi và hình thức sâu rộng. Hiện nay có một số hình thái hội nhập quốc tế cơ bản sau:

- Hội nhập kinh tế quốc tế: là việc các nước trên thế giới bắt đầu tham gia hội nhập quốc tế từ hội nhập kinh tế quốc tế, vì lĩnh vực kinh tế và lợi ích kinh tế là động lực cho sự phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay của thế giới được thể hiện bằng việc mở cửa nền kinh tế và hướng đến việc tự do hóa cơ chế phát triển kinh tế với quốc tế bằng nhiều hình thức như đơn phương, đa phương, khu vực, liên khu vực, tiểu khu vực, toàn cầu... và tùy theo năng lực kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế, tiềm lực kinh tế, sự ổn định chính trị... của mình để chấp nhận tham gia theo các mô hình liên kết quốc tế. Hiện tại, nền kinh tế thế giới có 5 mô hình cơ bản thể hiện cấp độ hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm:

Thứ nhất, là liên minh kinh tế - tiền tệ, hiện tại có Liên minh Châu Âu (EU), được thể hiện bằng việc có thị trường chung, chính sách kinh tế chung, tiền tệ chung. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất là thị trường chung có sự hòa đồng của các yếu tố khác.

Thứ hai, là thị trường duy nhất, được thiết lập theo hướng bỏ thuế quan và hàng rào thuế quan thương mại trong thị trường duy nhất mà các quốc gia tham gia, đồng thời với việc ban hành chính sách thuế quan chung tạo nền sản xuất chung. Ví dụ như Khối thị trường chung châu Âu trước đây.

Thứ ba, là liên minh thuế quan (CU). Các quốc gia phải cắt giảm thuế quan và bỏ thuế quan, cùng việc tuân thủ các chế định về chính sách thuế quan chung trong liên minh và chính sách thuế quan chung của liên minh với các quốc gia khác ngoài liên minh.

Thứ tư, là khu vực mậu dịch tự do (FTA), các quốc gia tiến hành cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan có định lượng trong khu vực. Đối với thuế quan của các nước trong khu vực với thị trường của các quốc gia ngoài khu vực vẫn giữ theo chính sách thuế quan của mình, ví dụ như: AFTA của ASEAN, Hiệp định đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)... 

Thứ năm, là thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), các nước tham gia thỏa thuận dành cho nhau các ưu đãi thương mại bằng việc cắt giảm thuế quan cho một số mặt hàng thương mại. Hội nhập kinh tế quốc tế có các nguyên tắc cơ bản sau: không phân biệt đối xử; cạnh tranh công bằng; áp dụng các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp cần thiết; ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và chậm phát triển.

- Hội nhập mang tính chính trị: đây là hình thái hội nhập quốc tế theo quy phạm chung của các cơ quan quyền lực của các quốc gia tham gia tuân thủ nhằm chia sẻ lợi ích cơ bản về chính trị chính thể, ý thức hệ, quyền lực… bằng hình thái hiệp ước, liên minh, đồng minh khu vực hoặc toàn cầu, ví dụ như ASEAN, EU, Liên hợp quốc... Quy phạm chung về hội nhập chính trị tùy theo tính chất của liên kết (sâu rộng, chặt chẽ, lỏng lẻo, đồng thuận…).

- Hội nhập an ninh - quốc phòng: các nước tham gia trên cơ sở liên kết theo mục tiêu vì hòa bình và an ninh với nhau có thể là song phương, đa phương, khu vực, tiểu khu vực… hoặc thấp hơn với hình thức hội nghị, diễn đàn…

- Hội nhập về văn hóa - xã hội: các quốc gia tham gia nhằm chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần, giáo dục, tiến bộ khoa học kỹ thuật… từ đó làm nền tảng cho các loại hình hội nhập quốc tế khác. Thông thường, hội nhập về văn hóa - xã hội giữa các quốc gia được thực hiện bằng các hiệp định song phương hoặc đa phương, nhưng phần nhiều là đa phương rộng rãi như việc tham gia vào các tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc…

Những nội dung về hội nhập quốc tế hiện nay đã trở thành xu thế chung của thế giới, là mối quan tâm của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Có sự nhận định chung sự liên kết giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay thực sự là đòn bẩy để tiến đến thời đại mới - thời đại toàn cầu hóa đang dần hình thành.

- Khái niệm cơ bản về quan hệ đối tác trong hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế. Có 5 cấp độ trong quan hệ đối tác giữa các quốc gia trên thế giới: 1) Có quan hệ đối tác, là đối tác khi có quan hệ ngoại giao và có các vụ việc trong hợp tác quốc tế; 2) Đối tác toàn diện: có quan hệ ngoại giao và có hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực; 3) Đối tác chiến lược: có quan hệ ngoại giao và có hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực có thể chế và chính sách được thiết lập hoàn chỉnh; 4) Đối tác chiến lược toàn diện: có quan hệ ngoại giao và thừa nhận sự tương đồng trong tổ chức xã hội, chính quyền và đối ngoại nhân dân trên cơ sở tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ; 5) Đối tác đặc biệt: có quan hệ ngoại giao và có hợp tác quốc tế sâu rộng, chiến lược… được coi như đồng minh.

2. Việt Nam - bước đường hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và tiến hành hợp tác quốc tế theo đặc điểm từng giai đoạn và thời kỳ với các nước trên thế giới, đặc biệt với các nước XHCN, theo hướng sâu rộng cả về hội nhập kinh tế quốc tế, hội nhập an ninh - quốc phòng, văn hóa - xã hội… đặc biệt là thời kỳ 1975-1990 trước khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã. Trong thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay,  Đảng và Nhà nước ta đã sớm đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hội nhập quốc tế và thực hiện hợp tác quốc tế với các nước và tổ chức quốc tế trên thế giới, thể hiện qua từng thời điểm như sau:

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VI (năm 1986) của Đảng chỉ rõ: cần tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong Hội đồng tương trợ kinh tế của khối các nước xã hội chủ nghĩa (khối SEV) và chủ động hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế với các nước khác.

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VII (năm 1991), đặc biệt là Nghị quyết của Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01/1994) chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới; phấn đấu vì hòa bình và phát triển.

- Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII (tháng 6/1996) đề rõ chủ trương để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới… Hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau…

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX (tháng 4/2001) đề ra đường lối mở rộng hợp tác quốc tế, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với tiêu chí “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”.

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X (năm 2006) đề ra chủ trương hợp tác quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XI (năm 2011) đề ra chủ trương “Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

- Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII (tháng 01/2016) đã nêu rõ chủ trương và đường lối về hội nhập quốc tế: “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa diện hóa quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”.

- Dự thảo Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nêu: ngoài các nội dung và được nêu rõ trong Văn kiện các Đại hội trước, có nội dung nhấn mạnh: xây dựng nền ngoại giao hiện đại vì lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy phục vụ người dân và doanh nghiệp làm trung tâm… đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện…, tiếp tục chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực tận dụng hiệu quả quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế, tăng cường đối ngoại nhân dân…

3. Hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế trong giai đoạn hiện nay

Một là, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế với cải cách hành chính, phát triển bền vững và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XII đề ra chủ trương và đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế; Nhà nước và Chính phủ đã xây dựng chương trình hành động, ban hành các chính sách, pháp luật nhằm triển khai cụ thể trong thực tiễn. Một trong các biện pháp để đảm bảo thực hiện là thông qua đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Phát triển kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, tăng cường an ninh - quốc phòng, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc theo mục tiêu của Đảng và Nhà nước; để thực hiện cho tốt các nội dung này nền hành chính nhà nước phải tiến hành cải cách nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành, điều tiết của bộ máy nhà nước. Đây là những nội dung cần phải được nghiên cứu, phân tích thấu đáo mối quan hệ giữa việc tích cực chủ động hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế với sự phát triển bền vững và đẩy mạnh cải cách hành chính cho giai đoạn phát triển đất nước ta hiện nay.

Các chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010 và giai đoạn 2011-2020 đã được triển khai thực hiện và tổng kết đánh giá, kết hợp với đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế toàn diện, mở cửa để thực hiện các quan hệ đối tác với các nước, các tổ chức quốc tế và nhân dân thế giới. Hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế chính là động lực thúc đẩy nước ta phải đổi mới, chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sangcơ vận hành theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, qua đó tiến hành cải cách kinh tế vĩ mô và vi mô, nâng cao sức sản xuất của xã hội, giữ gìn và phát huy  bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng cho sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.

Hai là, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. 

Từ thực tiễn và yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xu thế hội nhập, mở cửa trong hợp tác quốc tế, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa VII) đã thống nhất và xác định về thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đồng thời nêu rõ phương hướng, mục tiêu, bước đường để chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, cơ chế quản lý nhà nước và xã hội, sức lao động tiếp cận với công nghệ, phương tiện, phương thức, phương pháp mới dựa trên nền tảng tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến nhằm tạo ra năng suất lao động ngày càng cao. Điều quan trọng phải nhận thức rõ việc tiến hành công nghiệp hóa phải theo hướng hiện đại hóa trong mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội. Hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sẽ tạo điều kiện việc tận dụng, tranh thủ, tiếp thu các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý, quản trị; tuy nhiên cũng phải có những cách thức phù hợp vì do tác động khách quan và chủ quan của những nước phát triển cao vì mục tiêu lợi ích kinh tế không dễ chia sẻ cho các nước chậm phát triển. 

Mặt khác, do sự phát triển rất nhanh của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới, các nước có nền kinh tế phát triển cao và nền khoa học công nghệ cao đã tiến hành xây dựng nền kinh tế tri thức và chuyển dịch từng bước các cơ sở kinh thế công nghiệp sang các nước phát triển và chậm phát triển; đồng thời với đó là những bất ổn như ô nhiễm môi trường sinh thái, lao động…

Hiện nay, khi xem xét về tính chất và nội dung hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế với sự tiến bộ khoa học và công nghệ tác động đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, có 3 đặc điểm cần lưu ý, đó là: 

Thứ nhất, sự hình thành các chuỗi giá trị toàn cầu của xu hướng toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, cạnh tranh kinh tế diễn ra quyết liệt hơn, xuất hiện ngày càng nhiều các hình thái liên kết kinh tế quốc tế không chỉ nhằm vào mục đích kinh tế đơn thuần mà còn nhằm vào nhiều mục đích khác vì chính trị, văn hóa, phân công lao động quốc tế, dân tộc, tôn giáo… Vì vậy, mỗi quốc gia đều phải nghiên cứu để tham gia toàn cầu hóa sao cho có lợi nhất và có ưu thế nhất trong các mối quan hệ cạnh tranh kinh tế, tránh đến mức tối đa những tác động có hại. 

Thứ hai, chúng ta đều biết tài nguyên (tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên lao động…) có hạn. Vấn đề ở chỗ quốc gia nào giữ gìn, sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn, tận dụng được tài nguyên của quốc gia khác cho quốc gia mình thì sẽ giành được nhiều lợi ích hơn. 

Thứ ba, sự hình thành và phát triển của nền kinh tế tri thức với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phản ánh xu hướng phát triển trên nền tảng tích hợp cao của hệ thống kết nối số hóa, vật lý, sinh học với sự đột phá trí tuệ nhân tạo của nhân loại kết hợp với tiến bộ khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng đặt ra vấn đề quốc gia nào làm chủ công nghệ cao, kết hợp với phát huy và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc tốt hơn thì quốc gia đó sẽ có chiều hướng phát triển nhanh, bền vững hơn.

Ba là, hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế với việc thiết lập, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay.

Đổi mới, hội nhập quốc tế khởi đầu bằng hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta đã tạo tiền đề cho việc chuyển đổi cơ chế kế hoạch hóa tập trung và thiết lập vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nội dung này được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 và từ đó cho đến nay việc thiết lập, vận hành, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trở thành nhiệm vụ trọng tâm và được nhận định là vấn đề to lớn, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong nền kinh tế thị trường nơi nào có cơ chế để quá trình sản xuất, kinh doanh hiệu quả, có sự cạnh tranh mạnh hơn, ngược lại nơi nào kém hơn sẽ phải tự đào thải. Như vậy, cơ chế thị trường phản ánh các mối quan hệ về cung cầu, giá cả, môi trường cạnh tranh, vốn… với mục tiêu nhằm đạt được các lợi ích, trong đó lợi ích kinh tế là chủ đạo. Nền kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy các hoạt động kinh tế linh hoạt và hiệu quả hơn; nhưng mặt trái sẽ đem đến cho xã hội nhiều tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh, phân chia giàu nghèo sâu sắc, nhiều tác động gây nên các sự cố hủy hoại môi trường… Vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong điều tiết vĩ mô, vì vậy bộ máy nhà nước cần phải có sự chuyển đổi, cải cách hữu hiệu để đáp ứng yêu cầu này.

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia khi tiến hành cải cách hành chính để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường cho thấy có 2 yếu tố cần tiếp thu: 

Thứ nhất, điều nguy hiểm nhất trong mọi cuộc cải cách không bền vững là sự luẩn quẩn, kết quả cải cách giai đoạn trước lại thành nội dung của cải cách giai đoạn sau. Hiệu quả của nền hành chính đối với xã hội có thể được nâng lên, nhưng trong nền hành chính đó lại có vấn đề đòi hỏi cần cải cách về thủ tục hành chính giữa các cơ quan, các cấp hành chính, giữa cấp trên và cấp dưới, quyền hạn và trách nhiệm không rõ ràng, chức năng và nhiệm vụ chồng chéo… Bộ máy hành chính cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian, dẫn đến tình trạng quản lý nhà nước bằng rất nhiều quy định chồng chéo, không theo một quy tắc nào cả. 

Thứ hai, chỉ có sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường mới tạo nên các doanh nghiệp, doanh nhân kiên định và chỉ có nền kinh tế thị trường bằng quy luật khách quan của mình mới tạo nên thước đo hữu hiệu năng lực của doanh nghiệp, doanh nhân tốt hay không tốt, cao hay thấp chứ không phải là sự đỡ đầu, nâng đỡ, biểu dương của thế lực nào đó. Sự phân quyền, phi tập trung là tính chất của kinh tế thị trường đảm bảo cho các đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ, tự do lựa chọn phương thức hoạt động theo luật định trên thị trường, chấp nhận mọi sự biến động của thị trường.

Bốn là, những nội dung hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế cần lưu tâm nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để góp phần nâng cao chất lượng công tác của Bộ Nội vụ trong giai đoạn sắp tới.

- Những vấn đề chung: kinh nghiệm của quốc tế về hiện đại hóa nền hành chính, chính phủ điện tử, bản chất và thành quả, thành tựu của nhân loại đối với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; kinh nghiệm của quốc tế, của các nước tiên tiến về phát triển bền vững; vận hành nền kinh tế thị trường; các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, kinh tế vĩ mô, vi mô và vai trò của chính phủ; về giữ gìn, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; về bảo đảm an sinh - xã hội; kinh nghiệm của các quốc gia đã tiến hành cải cách hành chính hiệu quả; kinh nghiệm của một số nước tiên tiến đã tiến hành có kết quả cụ thể về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ trí thức, nhân lực có chất lượng cao.

- Những vấn đề cụ thể cần tiếp thu, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế thông qua hội nhập quốc tế, hợp tác quốc tế nhằm thực hiện, triển khai đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Nội vụ, như: mô hình tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; vị trí việc làm đối với công chức trong bộ máy hành chính nhà nước; cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, phương thức quản lý… trong quản lý các hội và tổ chức phi chính phủ; mô hình tổ chức và quản lý về cục, vụ, viện với chức năng quản lý nhà nước, tham mưu quản lý và sự nghiệp công; tổ chức chính quyền địa phương trong xu hướng đô thị hóa, chính quyền cơ sở…; cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, tự chủ, tính chất quản lý, quản trị... của các đơn vị sự nghiệp; phương thức quản lý về tôn giáo; phương thức đánh giá công chức, vai trò của lãnh đạo, quản lý, bồi dưỡng, tuyển chọn, trọng dụng, chế độ đãi ngộ, chế độ thăng tiến nhanh… đối với đội ngũ công chức nhà nước; phân công, phân cấp, phân quyền, nhất thể hóa trong tổ chức bộ máy nhà nước; chính phủ điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu mọi mặt của bộ máy hành chính nhà nước…

4. Những vấn đề đặt ra đối với hoạt động hợp tác quốc tế trong thời gian tới của Bộ Nội vụ và ngành Nội vụ

Tình hình thế giới và khu vực hiện nay đang có những thay đổi to lớn. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng, đặc biệt cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, đồng thời làm thay đổi lớn đến cách thức vận hành của hệ thống nền kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh sự cạnh tranh, ảnh hưởng gay gắt giữa các nước lớn, hòa bình, hợp tác cùng phát triển vẫn là xu thế nổi trội. Các nước không chỉ hợp tác về kinh tế mà còn hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau để đối phó với các vấn đề toàn cầu, vấn đề an ninh phi truyền thống đang là thách thức lớn đối với toàn nhân loại.

Đối với ngành Nội vụ, do có những đặc thù riêng, việc hội nhập quốc tế và hợp tác quốc tế cần được thực hiện từng bước, có chọn lọc, chủ động thu hút nguồn lực bên ngoài, cùng với nội lực bên trong tạo nên động lực mạnh mẽ phù hợp xu thế chung của đất nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị trong tình hình mới. Cụ thể, tại Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế; Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 05/11/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về việc thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới; Quyết định số 40/QĐ-TTg ngày 07/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”. Chúng ta tiếp tục mở rộng hợp tác trên cả phương diện đa phương và song phương, cũng như hợp tác trong khu vực ASEAN phù hợp với ưu tiên, chiến lược phát triển ngành, nhiệm vụ được giao trong thời gian tới. Năng lực của cán bộ, công chức thực hiện công tác hội nhập quốc tế cần được nâng cao để chủ động, đáp ứng yêu cầu làm việc trong môi trường hội nhập quốc tế, thích ứng linh hoạt điều chỉnh với sự thay đổi của thế giới và khu vực, trước những tác động khó lường của thiên tai, dịch bệnh… 

Bên cạnh các mối quan hệ hợp tác đặc biệt, truyền thống với các đối tác được triển khai thực hiện thường xuyên, đi vào chiều sâu thiết thực, phương hướng hợp tác trong thời gian tới tiếp tục chú trọng vào các hình thức song phương, đa phương; và hợp tác với các quốc gia thành viên ASEAN.

Trong hợp tác song phương, đa phương: đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 25-CT/TW ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Đây là văn bản chỉ đạo đầu tiên của Đảng ta về công tác đối ngoại đa phương của đất nước, đưa đối ngoại đa phương thành một nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, là một định hướng chiến lược quan trọng hàng đầu và là phương thức hiệu quả thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ thị số 25-CT/TW đã xác định mục tiêu cho công tác đối ngoại đa phương trong thời gian tới là “nỗ lực vươn lên đóng vai trò nòng cốt, dẫn dắt hoặc hòa giải tại các diễn đàn, tổ chức đa phương có tầm quan trọng chiến lược đối với đất nước” phù hợp với khả năng và điều kiện cụ thể của nước ta. Chỉ thị số 25-CT/TW cũng đề ra 06 quan điểm chỉ đạo chính và 07 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để triển khai đồng bộ các hoạt động đối ngoại đa phương trên các lĩnh vực, trong đó các tầng nấc ưu tiên trong triển khai đối ngoại đa phương cũng được xác định là với khối ASEAN, Liên hợp quốc; đặc biệt, với vai trò là khu vực then chốt đối với không gian phát triển của Việt Nam và đang trở thành một trung tâm quyền lực mới của thế giới, các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có hợp tác tiểu vùng cũng được xác định là một tầng nấc ưu tiên trong triển khai công tác đối ngoại đa phương thời gian tới. 

Hợp tác ASEAN: tiếp tục giữ vững và khai thác vị trí địa chiến lược, bảo đảm khả năng thích ứng và tự chủ trong quan hệ với các nước lớn. ASEAN ưu tiên triển khai tầm nhìn 2025 và các kế hoạch hợp tác trên 3 trụ cột là chính trị, kinh tế, và văn hóa xã hội; thu hẹp khoảng cách phát triển và tăng cường kết nối; duy trì đoàn kết nội khối; tăng cường quan hệ đối ngoại với tất cả các đối tác ngoài khu vực. Hợp tác ASEAN về các vấn đề công vụ (ACCSM) là cơ chế hợp tác gồm đại diện của các bộ, ngành phụ trách lĩnh vực công vụ của các nước thành viên ASEAN và ASEAN+3 được thành lập từ năm 1981 nhằm thúc đẩy hợp tác giữa các nền công vụ ASEAN. Kể từ khi thành lập, ACCSM đã trở thành một cơ chế để trao đổi thông tin, các đổi mới, sáng tạo và các thực tiễn tốt trong quản lý nền công vụ các nước ASEAN. ACCSM cũng thúc đẩy hợp tác một cách hiệu quả và hỗ trợ lẫn nhau trong việc xây dựng năng lực, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN.

Mục tiêu chung của ACCSM là tăng cường vai trò của nền công vụ, đóng góp vào sự phát triển của 3 trụ cột cộng đồng ASEAN (cộng đồng chính trị - an ninh, cộng đồng kinh tế và cộng đồng văn hóa - xã hội). 

Bộ Nội vụ sẽ đảm nhận vai trò Chủ tịch luân phiên của ACCSM lần thứ 21 (ACCSM 21), nhiệm kỳ 2021-2022 với chủ đề: “Hiện đại hóa nền công vụ hướng tới Cộng đồng ASEAN gắn kết và thích ứng”, phát huy tốt vai trò chủ trì, phối hợp với Ban Thư ký ASEAN và các nước thành viên góp phần thực hiện tốt sứ mệnh của ACCSM đóng góp cho sự thành công của “Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025” thông qua việc thúc đẩy hợp tác giữa các nền công vụ ASEAN, thúc đẩy phối hợp để xây dựng các nền công vụ hiệu lực, hiệu quả, có trách nhiệm và quản trị tốt, nâng tầm sức mạnh của các nước thành viên ASEAN thông qua: 1) Tăng cường các cơ chế hiện có để kết nối, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm giữa các nước thành viên; 2) Thúc đẩy và tạo điều kiện trao đổi các thực tiễn tốt, các đổi mới quản lý công thông qua vai trò của các trung tâm nguồn ASEAN như là nơi đưa ra các kiến thức chuyên môn trong các lĩnh vực tương ứng; 3) Xây dựng các sáng kiến hỗ trợ nền công vụ các nước ASEAN phát triển và trao đổi các thực tiễn tốt; 4) Triển khai các chương trình liên quan đến công vụ, công chức với sự hỗ trợ của các đối tác đối thoại ASEAN và các cơ quan khu vực và quốc tế.

Trong thời gian tới, Bộ Nội vụ tiếp tục đảm đương vai trò đầu mối triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Tuyên bố ASEAN về vai trò của nền công vụ làm chất xúc tác trong việc đạt được Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1439/QĐ-TTg ngày 29/10/2018. Việc triển khai Đề án này góp phần thực hiện có hiệu quả ở cấp quốc gia các mục tiêu của Tuyên bố ASEAN; tiếp thu các giá trị của quản trị tốt trong các hoạt động công vụ; thúc đẩy các chương trình cải cách công vụ, xây dựng năng lực và chia sẻ những thực tiễn tốt trong hệ thống công vụ hướng tới các mục tiêu chung của Cộng đồng ASEAN; nâng cao nhận thức của đội ngũ công chức Trung ương và địa phương về hội nhập ASEAN góp phần thực hiện quá trình cải cách nền công vụ theo hướng hiện đại, minh bạch, hiệu quả, hướng vào người dân, lấy người dân làm trung tâm. 

Các hoạt động thúc đẩy việc hội nhập ASEAN một cách thống nhất và toàn diện trong hệ thống công vụ, nhấn mạnh vai trò của Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với xu thế phát triển chung của hệ thống công vụ ASEAN, phát huy vai trò của Việt Nam trong ASEAN và trong các cơ chế, diễn đàn do ASEAN giữ vai trò trung tâm. Tuy nhiên, do tình hình thế giới có nhiều biến động, phát sinh khó lường, dịch bệnh COVID-19 còn diễn biến phức tạp trên quy mô toàn cầu, các hoạt động hợp tác quốc tế cần được điều chỉnh linh hoạt để thích ứng với phương thức làm việc mới và chủ trương của Chính phủ./.