Mã Giám Sinh Mua Kiều
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng chính hoàn cảnh ấy tạo cho ông vốn sống phong phú, tâm hồn sâu sắc.
2. Sự nghiệp sáng tác:
- Sự nghiệp sáng tác được đánh giá cao cả về chữ Hán và chữ Nôm.
- Tinh thần nhân đạo sâu sắc.
- Các giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật đạt đến đỉnh cao.
II. Tác phẩm
1. Tìm hiểu chung
a. Vị trí đoạn trích
- Nằm ở đầu phần thứ hai (“Gia biến và lưu lạc”).
- Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
- Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mênh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
b. Bố cục: 2 phần
- Phần 1: 10 câu đầu: (Từ đầu đến … “giục nàng kíp ra”): Sự xuất hiện của Mã Giám Sinh.
- Phần 2: Đoạn còn lại: Cảnh mua bán người.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. Nhân vật Mã Giám Sinh
- Diện mạo và cử chỉ
- Sinh viên trường Quốc Tử Giám
- Người khách ở xa
- Tên: Mã Giám Sinh
- Quê: huyện Lâm Thanh
- Tuổi: ngoại tứ tuần
- Cách ăn mặc: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
- Nói năng: thô lỗ, vô lễ
- Hành động: ghế trên ngồi tót sỗ sàng
⇒ Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự, trơ trẽn, hỗn láo.
- Bản chất:
+ Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh
+ Bản tính con buôn, lưu manh
⇒ Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là một kẻ giả dối, vô học, con buôn, mất lịch sự.
b. Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
- Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều:
+ Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán.
+ Ý thức được nhân phẩm.
- Nỗi đau đớn, tái tê:
+ Buồn rầu, tủi hổ, ngại ngùng
+ Ê chề trong cảm giác thẹn với lòng.
+ Đau đớn khi tình duyên tan vỡ.
+ Uất hận khi gia đình bị vu oan.
⇒ Tâm trạng đau khổ, xấu hổ, đan đớn.
c. Giá trị nội dung
- Phơi bày bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh
- Lên án xã hội phong kiến, những thế lực chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm người phụ nữ. (Tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa chà đạp phẩm giá con người).
- Bày tỏ sự cảm thông, sâu sắc với số phận con người.
d. Giá trị nghệ thuật
- Khắc họa thành công nhân vật chính diện và phản diện
- Thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lý nhân vật của Nguyễn Du trong tác phẩm.
III. Phân tích tác phẩm
a) Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích:
+ Nguyễn Du (1765 – 1820), là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Sự ngiệp văn học rất phong phú và đồ sộ.
+ Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều: nằm ở phần đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương.
II. Thân bài
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, bút pháp miêu tả của Nguyễn Du.
+ Mã Giám Sinh được Nguyễn Du miêu tả đúng với bản chất của một tên buôn người.
- Nhân vật Mã Giám Sinh
+ Diện mạo và cử chỉ
Người khách ở xa
Tên: Mã Giám Sinh
Quê: huyện Lâm Thanh
Tuổi: ngoại tứ tuần
Cách ăn mặc: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Nói năng: thô lỗ, vô lễ
Hành động: ghế trên ngồi tót sỗ sàng
⇒ Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự, trơ trẽn, hỗn láo.
+ Bản chất
Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh
Bản tính con buôn, lưu manh
⇒ Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là một kẻ giả dối, vô học, con buôn, mất lịch sự.
- Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
+ Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán.
Ý thức được nhân phẩm.
+ Nỗi đau đớn, tái tê
Buồn rầu, tủi hổ, ngại ngùng
Ê chề trong cảm giác thẹn với lòng.
Đau đớn khi tình duyên tan vỡ.
Uất hận khi gia đình bị vu oan.
⇒ Tâm trạng đau khổ, xấu hổ, đan đớn.
- Tấm lòng của tác giả
+ Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
+ Tác giả có cái nhìn mỉa mai, châm biếm, lên án diện mạo và cử chỉ thô lỗ, sỗ sàng của Mã Giám Sinh.
⇒ Tác giả thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng con người bị hành hạ, bị chà đạp.
⇒ Hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi tủi hổ, đau đớn của Kiều.
III. Kết bài
- Nội dung: Bằng nghệ thuật tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Qua đó lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
- Nghệ thuật:
+ Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ.
+ Dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật.
b) Phân tích tác phẩm
Phân tích tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài văn mẫu số 1
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là đoạn mở đầu trong đoạn đời 15 năm trời lưu lạc đau khổ của nàng Kiều. Đoạn thơ dài 34 câu, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều.
Đoạn thơ làm sống lại một cảnh mua bán người thời trung cổ, thể hiện bút pháp nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Nét đặc sắc nhất là nghệ thuật miêu tả và khắc hoạ nhân vật Mã Giám Sinh. Trước cảnh gia biến, Kiều là đứa con chí hiếu quyết bán mình chuộc cha thoát khỏi vòng tù tội:
Hạt mưu sá nghĩ phận hèn.
Liều dem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.
Khách đến mua Kiều là "người viễn khách" được mụ mối đưa vào để “ vấn danh”, để ăn hỏi và xin cưới! Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Phải chăng “viễn khách" đi tìm người đẹp để “cầu hôn?”.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Khách tự giới thiệu mình là "kẻ sĩ” - sinh viên trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần". Hai chữ "rằng" nối tiếp nhau xuất hiệu biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của " viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô lậu, khiếm nhã:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh",
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".
Đọc “Truyện Kiều" ta mới thấu tỏ nguồn gốc “viễn khách". Y với mụ Tú Bà là những kẻ “Làng chơi đã trở về già hết duyên". Sống ở Lâm Tri "Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề". Sinh viên trường Quốc Tử Giám, “huyện Lâm Thanh cũng gần" mà Mã Giám Sinh tự giới thiệu chỉ là một sự khoe mẽ, bịp bợm. Viễn khách chỉ là một kẻ buôn thịt bán người "Quen mối lại kiếm ăn miền nguyệt hoa". Đây là bức chân dung truyền thần tên lái buôn họ Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tụần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Nhân cách y hé lộ dần. Cái “nhẵn nhụi" của mày râu gợi lên một ấn tượng dung tục, tầm thường; cái “ bảnh bao" của áo quần biểu lộ một tính cách giả dối. “Mày râu nhẵn nhụi” và “ áo quần bảnh bao" là hai hình ảnh, hai nét vẽ châm biếm Mã Giám Sinh “vẫn là một đứa phong tình đã quen”. Lần đầu Kim Trọng gặp Thúy Kiều, người đẹp có bao giờ quên được hình ảnh văn nhã:
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau lưng theo một vài thằng con con.
" Vài thằng con con" là những chú tiểu đồng đáng yêu. Mã Giám Sinh cũng thầy - tớ”, cũng có “trước – sau” ra vẻ sang trọng, lên bộ quan dạng, mỗi bước đi là có kẻ đón người đưa, có kẻ hầu người hạ. Nhưng giữa thầy và tớ của ông khách viễn phương này sao mà “lao xao” ồn ào, lộn xộn, không chút lễ giáo, thiếu nền nếp, đáng khinh: Trước thầy sau tớ lao xao. Mới được mụ mối "rước vào lầu trang”, cách ứng xử, cách đứng ngồi của Mã Giám Sinh càng bộc lộ tư cách của kẻ hạ lưu lại còn hợm hĩnh lên mặt:
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Cái lối “ngồi tót" là cách ngồi của bọn con buôn, của “phường buôn thịt”, của “quân buôn người". Cái cử chỉ “sỗ sàng" là cử chỉ của những kẻ thiếu nhân cách vừa thiếu lễ độ, lịch sự vừa thiếu tự trọng. Hắn coi thường phẩm giá con người. Kẻ chỉ biết “kiếm ăn miền nguyệt hoa" mới có lối "ngồi tót” và cử chi “sỗ sàng” ấy!
Mã Giám Sinh là một kẻ buôn thịt bán người lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay" món hàng thì hắn "cân sắc” rồi “cân tài", hắn “ép", hắn “ thử', hắn bắt Kiều đánh đàn, làm thơ một cách “đắn đo” suy tính kĩ càng. Người “quốc sắc thiên hương” đối với hắn chỉ là một món hàng:
Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Và chỉ sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu”, Mã Giám Sinh mới “tùy cơ dặt dìu" mua bán. Tuy nói là “mua ngọc”, tuy lên giọng cao sang là “sính nghi', nhưng vẫn “cò kè” lúc thì “bớt một”, lúc thì “thêm hai”. Thời gian mặc cả người đẹp đã kéo dài mãi đến “giờ lâu” mới “ngã giá”:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã thể hiện cái tâm và cái tài của Nguyễn Du. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, nhà thơ đã tố cáo, lên án và khinh bỉ “phường bán thịt, quân buôn người” trong xã hội thối nát. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng, nhân phẩm họ bị chà đạp xuống vũng bùn nhơ! Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!" là một lời kết án đanh thép những kẻ bất lương làm giàu trên thân xác người phụ nữ.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực, lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất về trang phục, dáng vẻ, cử chỉ, ngôn ngữ, cách mua bán... để khắc họa tính cách nhân vât Mã Giám Sinh. Hắn là một kẻ phong tình, giả dối, bủn xỉn, thuộc “ Tuồng vô nghĩa, ở bất nhân" như Tú Bà đã hạ nhục hắn.
Chữ nghĩa dưới ngòi bút thi hào có một ma lực ghê gớm, tạo nên những nét vẽ sắc sảo như: nhẵn nhụi, bảnh bao, lao xao, ngồi tót, sỗ sàng, dặt dìu, cò kè... Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong “ ruyện Kiều” đã trở thành một điển hình cho bọn "buôn phấn bán hương" trong xã hội, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của áng thơ kiệt tác này.
Phân tích tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài văn mẫu số 2
Người ta đã nói nhiều về tài miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, dù là nhân vật chính diện hay phản diện đều rất sinh động. Chỉ bằng một vài nét chấm phá nhân vật của ông hiện ra trước mắt người đọc một cách cụ thể cả ngoại hình lẫn nội tâm. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã phần nào chứng minh tài năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Chân tướng tên buôn thịt bán người cứ lộ dần qua màn kịch ngắn này.
Mã Giám Sinh xuất hiện với tư cách là một “ viễn khách". “ Viễn khách" là người khách từ phương xa đến. Ngay từ đầu người khách từ phương xa đến này đã có một chút đáng ngờ:
Hỏi tên rằng: “ Mã Giám Sinh’’
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Cách trả lời nhát gừng, cộc lốc ấy đã hé cho ta thấy người “viễn khách" này chẳng mấy lịch sự. Cách trả lời ấy hoàn toàn xa lạ với một người có học như y tự xưng: sinh viên trường Quốc Tử Giám. Ngay việc y chỉ nói họ mà không nói tên đã chứng tỏ y muốn che giấu tung tích của mình. Hỏi quê quán y cũng trả lời qua quýt cho xong chuyện. Chân tướng Mã Giám Sinh bộc lộ dần qua cách Nguyễn Du miêu tả ngoại hình của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
“Trạc ngoại tứ tuần” là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không còn trẻ nữa, thế mà y vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Tác giả cố ý làm nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của y. Những từ “nhẵn nhụi', “bảnh bao” không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Cách ăn mặc “bảnh bao" của y càng chứng tỏ y chẳng phải là một sinh viên trường Quốc Tử Giám hào hoa phong nhã. Hình như y đang cố che đậy một điều gì, qua cách tỉa tót, chải chuốt và ăn diện quá mức ấy. Nhưng dù cố che đậy, bản chất vỏ bọc của y vẫn cứ lòi ra:
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
“Trước thầy sau tớ” có vẻ rất đàng hoàng, trịnh trọng, nhưng sao lại “lao xao"? "Lao xao'' là ồn ào, lộn xộn mất trật tự. Cả tớ lẫn thầy đều chẳng giữ ý tứ khi vào nhà Vương ông. Vừa vào đến nơi Mã Giám Sinh đã “ngồi tót' ở “ghế trên" mội cách "sỗ sàng”. Động tác ngồi của y càng chứng tỏ y là kẻ vô học trịch thượng hợm hĩnh. Một người thực sự là sinh viên trường Quốc Tử Giám ít nhất phải thanh nhã như Kim Trọng, đi đứng, ăn nói từ tốn, lịch sự như Kim Trọng:
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Mã Giám Sinh hoàn toàn ngược lại: y nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, đi đứng láo nháo, hợm hĩnh,... Tất cả đã cho ta hiểu con người của y. Nguyễn Du không dừng lại ở đó, ông còn tiếp tục lột trần chân tướng Mã Giám Sinh. Trước "nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn. Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để y “đắn đo cân sắc cân tài'. Sau đó y mặc cả. Y xem Kiều chi là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có chữ:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Sau đó y lộ nguyên hình là một tên "buôn thịt bán người” sành sỏi:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Từ “đáng giá nghìn vàng” y “cò kè" thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm". Nghĩa là chưa được một nửa... Điều đó chứng tỏ y rất thủ đoạn trong việc mua bán. Mã Giám Sinh đã nắm được tình thế của gia đình Vương ông, y đã tìm cách hạ giá hàng đến mức thấp nhất. Khi màn kịch khép lại cũng là lúc chiếc mặt nạ bị lột trần. Mã Giám Sinh chẳng cần trá hình là một sinh viên trường Quốc Tử Giám nữa. Y đã hoàn thành vai diễn cùa mình:
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa khá cụ thể và sinh động. Tính cách đó được thể hiện chủ yếu qua việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ và hành động nhân vật. Bằng những từ ngữ chọn lọc có sức gợi, sức biểu cảm cao, Nguyễn Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người họ Mã vừa bộc lộ thái độ châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, thô lỗ ấy. Chỉ qua màn kịch ngắn này, chúng ta cũng hiểu phần nào tài năng miêu tả nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.
Phân tích tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài văn mẫu số 3
Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều thể hiện nhân vật Mã Giám Sinh là một nhân vật mua phấn bán hương, buôn bán người trên thân thể phụ nữ để kiếm tiền.
Đoạn thơ được miêu tả chi tiết sống động như thời xưa, thể hiện bút pháp nghệ thuật tài tình của thiên tài ngôn ngữ Nguyễn Du. Tác giả Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế thể hiện sự đặc sắc trong miêu tả con người, từ vẻ ngoài tới tính tình bên trong. Người khách tới mua Thúy Kiều là một người khách từ phương xa tới được bà mối đưa vào để vấn danh thể hiện tên tuổi của mình. Xin cưới Vương Thúy Kiều một cách đường đường chính chính, một cách trang trọng, uy nghi.
Nhưng sự thật thì có phải Mã Giám Sinh thật sự muốn lấy vợ hay chỉ là một trò bịp bợm giả vờ, lừa đảo chứ thực chất chỉ là một kẻ buôn phấn bán hương, lợi dụng thân xác phụ nữ để kinh doanh mưu lợi bất chính.
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
Người khách kia tự giới thiệu mình là người có học, là một kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám chỉ nói họ nhưng không xưng tên, không nói rõ, vẻ ngoài của anh ta luôn tỏ ra là một người quý tộc, quê quán của hắn ở huyện Thanh Lâm. Hai chữ “rằng” nối tiếp thể hiện thái độ vô cùng cao ngạo, kiêu kỳ coi thiên hạ bằng nửa con mắt, có thể một tay che trời. Khẩu ngữ đối đáp của người khách lạ kia vừa hợm hĩnh thô bạo, thiếu lịch sự, khiếm nhã vô cùng.
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Trong tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du người ta tỏ rõ nguồn gốc viễn khách kia Mã Giám Sinh với mụ Tú Bà thực chất chỉ là người buôn bán dẫn khách, buôn thịt bán người kiếm tiền mà thôi. Hắn tự xưng mình là kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám là một trường nho sĩ vô cùng tên tuổi của Trung Quốc. Thực chất hắn chỉ là kẻ khoe khoang, bịp bợm, hợm hĩnh mà thôi.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trong hai câu thơ này thể hiện một diện mạo vô cùng dung tục của một kẻ tầm thương, cái bảnh bao bên ngoài chỉ thể hiện qua bộ quần áo thể hiện một tính cách giả dối. Hình ảnh mày râu nhẵn nhụi thể hiện nét giả dối châm biếm của tác giả Nguyễn Du dành cho nhân vật này, thể hiện ra hắn là con người chải chuốt nhưng không đáng tin, hắn giấu diếm một điều gì đó.
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.
Tác giả Nguyễn Du thể hiện lối viết cái lối ngồi tót thể hiện hành động vô cùng hợm hĩnh của những người buôn thịt bán người, những kẻ lấy thân thể của người phụ nữ làm nguồn kinh doanh lợi nhuận. Từ “sỗ sàng” của Nguyễn Du thể hiện sự thiếu lịch sự, thiếu nhân cách, thiếu tự trọng của những kẻ ít học luôn coi mình là nhất.
Qua hành động này người đọc có thể thấy rằng Mã Giám Sinh dần dần lộ rõ bộ mặt thật của mình là kẻ lõi đời, thiếu học thức chỉ là kẻ quanh năm buôn bán thân xác phụ nữ mà thôi, chứ không phải là người học ở trong Quốc Tử Giám như hắn giới thiệu:
Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Trong cảnh Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều đã thể hiện cái tài của Nguyễn Du và lòng nhân văn cao thượng của tác giả. Thông qua nhân vật Mã Giám Sinh nhà thơ Nguyễn Du muốn tố cáo lên án xã hội cũ khi để những nhà chứa, kỹ viện, thanh lâu hoạt động một cách công khai, là chốn mua vui cho người có tiền và quan công, vua chúa. Thể hiện thân phận nhỏ bé của người phụ nữ khi sống trong xã hội cũ. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng kiếm lợi nhuận cho những kẻ buôn người kiếm tiền phi pháp.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực lựa chọn nhiều chi tiết đặc sắc đắt giá, dáng vẻ cử chỉ ngôn ngữ khi tìm cách buôn bán người phụ nữ để khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh. Một kẻ phong tình, giả dối, một người buôn người chính hiệu.
Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành một điển hình cho bọn buôn người trong xã hội phong kiến, thông qua đoạn trích này tác giả muốn tố cáo tội ác của xã hội phong kiến.
Phân tích tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài văn mẫu số 4
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều được trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là đoạn mở đầu cho quãng đời 15 năm lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Đoạn thơ đã làm sống lại một cảnh buôn bán người thời trung cổ, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Đặc sắc nhất là khi tác giả tả nhân vật Mã Giám Sinh.
Vị khách đến mua Kiều là “người viễn khách”, được mụ mối đưa vào để “vấn danh” để ăn hỏi và xin cưới. Vị khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” – sinh viên của trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ chứ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc.
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Thanh Lâm cũng gần”
Hai chữ “rằng” trong lời giới thiệu đã bộc lộ một thái độ kiêu kì, coi thiên hạ bằng nửa con mắt của Mã Giám Sinh, khẩu ngữ đối đáp của hắn vừa hợm hĩnh lại thô lậu và khiếm nhã. Nguồn gốc của hắn thực chẳng phải kẻ sĩ gì cả, hắn đích thực là một kẻ buôn thịt bán người mà Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”
Vẻ nhẵn nhụi của Mã Giám Sinh gợi lên sự dung tục, tầm thường, sự bảnh bao của áo quần lại biểu lộ sự giả dối, đội lốt, tác giả đã vẽ những nét châm biếm trên chân dung của Mã Giám Sinh. Vị khách này cũng có kẻ tớ, đi một bước cũng có người hầu hạ, ra vẻ rất sang trọng, quan dạng. Nhưng giữa vị thầy và tớ của ông khách này có những điểm lạ thường, gây “lao xao” ồn ào và lộn xộn. Chúng không có chút lễ giáo, phép tắc và thiếu nề nếp, đáng khinh:
“Trước thầy sau tớ lao xao…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chỉ qua các hành động ứng xử như “ngồi tót”, “sỗ sàng” đã bộc lộ rõ tư cách của những kẻ hạ lưu, thiếu nhân cách và thiếu lễ độ, đó là cách của phường buôn thịt và quân buôn người. Mã Giám Sinh là một kẻ buôn bán người đã lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc cân tài” rồi “ép” và “thử”, bắt Kiều đánh đàn, làm thơ, đối với hắn dù có là người có quốc sắc thiên hương như Kiều cũng chỉ là một món hàng không hơn không kém, để hẳn mang ra mà cân đo đong đếm.
Sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu” hắn mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Cảnh mua bán Kiều đã thể hiện được cả cái tâm và cái tài của Nguyễn Du, qua nhân vật Mã Giám Sinh, tác giả đã tố cáo và lên án một cách khinh bỉ quân buôn thịt bán người trong xã hội phong kiến thối nát. Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, chuyện gì chẳng xong” là một lời vạch trần những kẻ bất lương, làm giàu trên thân xác của người phụ nữ. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện thực, nghệ thuật miêu tả người rất tài tình, tác giả đã khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh, hắn là một kẻ phong tình, giả dối, keo kiệt và vô tình, bất nhân bất nghĩa.
Hình ảnh Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều hay chính trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội phong kiến xưa, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của tác phẩm.
Phân tích tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều – Bài văn mẫu số 5
“Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người”.
(“Kính gửi cụ Nguyễn Du” – Tố Hữu)
Ra đời hơn hai trăm năm nhưng cho đến bây giờ và muôn đời sau, “Truyện Kiều” vẫn là “món ăn tinh thần” không thể thiếu được đối với con người Việt Nam, vẫn là một tác phẩm bất hủ, vẫn làm “say lòng người”, gắn bó với cuộc sống của mọi thế hệ. Một trong những yếu tố làm cho tác phẩm ấy đi sâu vào lòng người là bởi tiếng nói khẳng định yêu thương và bênh vực giá trị của con người thông qua việc tố cáo xã hội phong kiến mục nát đương thời đầy rẫy những kẻ “bán thịt buôn người” và nhất là thế lực đồng tiền đã ngự trị tất cả. “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn tiêu biểu.
Đoạn trích không chỉ khiến chúng ta xốn xang rơi lệ cho tâm trạng của Kiều trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan” mà còn khiến cho ta căm giận trước hình ảnh một kẻ bất nhân trơ tráo như Mã Giám Sinh.
Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra khảo, tài sản gia đình bị bọn sai nha “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân”. Đây là một trong những đoạn thơ thành công về nghệ thuật tả người của thiên tài Nguyễn Du – đặc biệt là nhân vật phản diện, tiêu biểu là Mã Giám Sinh. Trước hết tác giả giới thiệu y là “viễn khách” đến làm lễ “vấn danh” – khách phương xa đến hỏi vợ và xin cưới:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”
Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu thơ tiếp theo là lời hỏi – đáp:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Cách trả lời của hắn thật cộc lốc, khiếm nhã. Kỳ thực Mã Giám Sinh vốn chung lưng với Tú Bà mở lầu xanh:
"Chung lưng mở một ngôi hàng
Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề”
Hắn ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở “Lâm Thanh”. Ở trên hắn nói với mụ mối là “viễn khách”, bây giờ lại nói là “cũng gần”. Đích thực là người ăn nói gian ngoa. Hắn chỉ là tên buôn thịt người nhưng lại khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử giám, họ Mã. Lai lịch của y thật mập mờ. Nhân cách hé lộ dần…
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”
Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ lố bịch: “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” là hai nét vẽ châm biếm. Cũng “thầy” cũng “tớ”, cũng “trước” cũng “sau”, có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của tên “khách viễn phương” này sao mà “lao xao” chẳng có nền nếp, lễ giáo gì!
Đặc biệt là cái cử chỉ ngồi “sỗ sàng” đường đột ở “ghế trên” thể hiện hắn là người không biết giữ ý tứ, không biết lễ phép. Nếu là sinh viên trường Quốc Tử giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh. Chữ “tót” ở đây mang sắc thái khinh bỉ. Nói như nhà phê bình Hoài Thanh “chỉ một từ “lẻn” cho Sở Khanh, chữ “tót” cho Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã thâu tóm toàn bộ bản chất của nhân vật”. Ở đây tác giả không dùng những từ ngữ trang nhã, hình ảnh ước lệ mà sử dụng từ ngữ bình dân mang tính chất tả thực và có ẩn chứa cả thái độ mỉa mai, châm biếm, khinh bỉ của tác giả. Cách miêu tả ở đây khác hẳn với cách khắc họa nhân vật chính diện. Chẳng hạn một Thúy Vân:
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”
hoặc một Thúy Kiều:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Rõ ràng nghệ thuật tả nhân vật thật linh hoạt. Nhưng có lẽ chân tướng của y qua cuộc mua bán mới được bóc trần:
“Đắn đo cân sắc, cân tài:
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ”.
Những từ “cân”, “ép”, “thử” thường được dùng khi kiểm nghiệm hàng hóa. Vậy đích thực đây là cuộc mua bán được trá hình và qua những thao tác của y, ta phần nào hiểu được hắn là một tên buôn người khá lọc lõi… Những chữ ấy tưởng giản đơn, lạnh nhạt tưởng chừng như tác giả đang đứng ngoài cuộc làm nhiệm vụ quan sát nhưng kì thực nó đã chứa đựng biết bao tình cảm xốn xang, nhức nhối của một trái tim nhân đạo. Lời nói văn hoa của y cũng không che đậy được bản chất giả nhân giả nghĩa, tính cách thực dụng:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”
Để rồi cuối cùng, tác giả đã lột trần chân tướng của hắn:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”
Chỉ hai từ “cò kè” và “ngã giá” đủ làm cho gã họ Mã hiện nguyên hình là một kẻ buôn người ghê tởm. Và cũng nhờ đó, ta còn hiểu thêm được tính cách bủn xỉn của y. Tác giả đã khép lại cảnh tượng mua bán ấy bằng những từ xoay quanh việc hỏi cưới: “nạp thái”, “vu quy”, “canh thiếp”… nhưng cũng không quên hạ một câu mỉa mai, chua xót: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
Đồng tiền – bạo lực đã khiến cho bọn quan lại áp bức dân lành, đồng tiền đã làm cho tử biệt sinh ly, thay đổi trắng đen, khuynh đảo cả một xã hội, đồng tiền đã chà đạp lên cuộc sống và nhân phẩm của một con người. Nàng Kiều tài hoa xinh đẹp đã trở thành hàng hóa điêu linh trước đồng tiền của tên Giám Sinh họ Mã.
Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách xấu xa, đồi bại của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nào cũng rất sống, đằng sau nét vẽ là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người “bạc ác tinh ma” này ! Bức chân dung phản diện của Mã có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án bọn buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.
Tóm lại: “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một trong những đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong “Truyện Kiều”. Qua nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc sảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội cùng với thế lực ngự trị của đồng tiền trong xã hội bấy giờ. Đó cũng chính là thành công về giá trị tố cáo hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.