Tác giả, Tác phẩm văn 9 – Con chó Bấc

Con chó Bấc

I. Vài nét về tác giả

- G. Mô- pa- xăng (1850-1893) tên đầy đủ là Guy de Maupassant

- Quê quán: vùng Normandie ở miền Bắc nước Pháp

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:

+ Năm 1871, ông đến Paris làm một viên chức nhỏ cho Bộ Hải quân

+ Từ năm 1878 trở đi ông làm một viên chức Bộ Giáo dục

+ Hoạt động văn chương của ông bắt đầu khoảng giữa thời gian từ 1871-1880, bắt đầu bằng những bài thơ

+ Trong khoảng 1880-1891, ông đã sáng tác thêm khoảng 300 truyện ngắn, trong đó có rất nhiều truyện xuất sắc như: Người đã khuất, Món tư trang, Cái thùng con, …

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh sáng tác

- Văn bản là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, lấy từ Tuyển tập truyện ngắn Pháp, thế kỉ XIX, bản dịch của Lê Hồng Sâm, NXB Đại học và THCN, Hà Nội, 1986

2. Bố cục

- 4 phần:

+ Phần 1: Nỗi tuyệt vọng của Xi- mông

+ Phần 2: Xi- mông gặp bác Phi- líp

+ Phần 3: Bác Phi- líp đưa Xi- mông về nhà

+ Phần 4: Ngày hôm sau ở trường

3. Giá trị nội dung

- Qua diễn biến tâm trạng của ba nhân vật: Xi- mông, Blăng- sốt và Phi- líp, nhà văn gợi cho ta về lòng yêu bạn bè, mở rộng ra là yêu thương con người, sự thông cảm với những nỗi đau hoặc lầm lỡ của người khác

4. Giá trị nghệ thuật

- Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả thật sâu sắc, tinh tế; hình thức giản dị trong sáng, thể hiện một nội dung cô đọng, sâu sắc.

III. Phân tích tác phẩm

a) Dàn ý

I. Mở bài

- Vài nét về tác giả G. Mô- pa- xăng: Một nhà văn Pháp tài năng với gia tài văn chương đồ sộ

- Khái quát về đoạn trích Bố của Xi-mông: Đoạn trích là một phần của truyện ngắn Bố của Xi- mông, khắc họa thành công nét đẹp của các nhân vật Xi-mông, Blăng- sốt và Phi- líp

II. Thân bài

1. Nhân vật Xi-mông

- Là một đứa trẻ đáng thương: "Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút nhát gần như vụng dại", là đứa trẻ không có bố, thường bị bạn bè trêu chọc

- Ý nghĩa và hành động: Bỏ nhà ra bờ sông định tự tử.

- Tâm trạng: cảm giác uể oải, buồn bã vô cùng, chẳng nhìn thấy gì và chẳng nghĩ gì?

- Cử chỉ, hành động: Khóc, nức nở, khóc hoài

- Về nhà, nhìn thấy mẹ: - Nhảy lên ôm cổ mẹ, oà khóc

- Nói năng: ấp úng, ngắt quãng, không nên lời.

- Khi được bác Phi-líp nhận làm con: Kiêu hãnh, tự tin

+ Hết cả buồn.

+ Đưa con mắt thách thức lũ bạn.

Nghệ thuật miêu tả, so sánh Đây là một đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, đáng yêu và đáng thương nhưng đồng thời Xi – mông cũng là đứa rất có nghị lực

2. Nhân vật Blăng- sốt

- Được giới thiệu: là một thiếu phụ, cao lớn, xanh xao, nghiêm nghị.

- Sống cùng đứa con trai Xi-mông trong ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.

- Thái độ với khách: đứng nghiêm nghị…như muốn cám đàn ông bước qua ngướng cửa.

- Nỗi lòng với con

+ Tái tê đến tận xương tuỷ, nước mắt lã chã tuôn rơi.

+ Lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn

Nghệ thuật miêu tả, tác giả đã cho thấy Blăng- sốt là một người thiếu phụ đẹp, đức hạnh, trót lỡ lầm

3. Nhân vật Phi - lip

- Được giới thiệu là một người :

+ Cao lớn, râu tóc quăn đen

+ Bàn tay chắc nịch, giọng ồm ồm.

- Khi gặp Xi-mông:

+ Đặt tay lên vai em ôn tồn hỏi, nhìn em nhân hậu.

- Trên đường đưa Xi-mông về nhà nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị - “tự nhủ thầm”

- Hành động: Trò chuyện và nhận làm bố của Xi-mông

Nghệ thuật kể chuyện sinh động, nghệ thuật miêu tả, ngôn ngữ đối thoại Bác Phi-líp là người nhân hậu, giàu tình thương đã cứu sống Xi-mông, nhận làm bố của Xi-mông, đem lại niềm vui cho em.

II. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích: Nghệ thuật: miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật sắc nét.

Nội dung: Nhắc nhở lòng thương yêu con người, bè bạn.

- Liên hệ bản thân

b) Phân tích tác phẩm

Phân tích tác phẩm Con chó Bấc – Bài văn mẫu số 1

Như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động.

Đoạn văn Con chó Bấc là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi. Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong “một tình yêu thương thực sự vù nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng.

Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm “tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh.

Thế thôi! Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới “khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt... "Tinh cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là “ông chủ lý tưởng”. Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng.

Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhậy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.Giôn Thoóc-tơn "đã chăm sóc”, lúc là một lời chào “hớn hở’’, lúc là một cử chỉ “thân ái", lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-lơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mù đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm". Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ", "tiếng rủa rủ rĩ bên tui”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”.

Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho" có "nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy:“Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”.Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-lơn "ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”.

Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã tả, hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mũi cho đến khi được vỗ về. Lúc thì tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc- tơn”.

Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng "sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên ” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc "nói chuyện ” với nó. Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con nguời tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc ! Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kỹ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó.

Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “Ông chủ lí tưởng”.Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, "nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước". Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều "lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ".

Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.Tóm lại, Lân-đơn đã lấy tình thương đổ tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học lập ở Lân-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật.

Con chó Bấc nhân hậu, tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đối với những vật nuôi trong gia đình. Biết sống trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất.

Phân tích tác phẩm Con chó Bấc – Bài văn mẫu số 2

Giắc Lân-đơn (1876 – 1916) là nhà văn Mĩ, tên thật là Giôn Gri-phit Lân-đơn, sinh ở bang San Phran-xi-xcô. Ông trải qua thời kì thơ ấu rất vất vả, từng phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Lân-đơn bắt đầu sự nghiệp sáng tác bằng những truyện ngắn đăng trên một tờ báo của sinh viên. Thời kì phát triển cao nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông là vào đầu thế kỉ XX.

Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) là tiểu thuyết ra mắt bạn đọc sau khi ông đi theo những người tìm vàng đến miền Clân-đai-cơ trở về. Con chó Bấc là một đoạn trích trong cuốn tiểu thuyết đó. Tác phẩm kể về Bấc, một con chó bị bắt cóc đưa lên vùng Bắc cực để kéo xe trượt tuyết cho những người đi tìm vàng. Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác. Chỉ riêng Giôn Thoóc-tơn là người đã có lòng nhân từ dối với nó. Sau khi Thoóc-tơn chết, nó rời bỏ con người, đi theo tiếng gọi nơi hoang dã và trở thành một con chó hoang.

Trong đoạn trích, nhà văn Lân-đơn đã có những nhận xét tinh tế và trí tưởng tượng tuyệt vời khi đi sâu vào đời sống “tâm hồn” của con chó Bấc, đồng thời bộc lộ tình cảm yêu thương của mình đối với loài vật. Bài văn được chia làm ba phần. Phần một. Từ đầu đến… mói khơi dậy lên được: Quan hệ của Bấc đối với gia đình chủ cũ. Phần hai. Tiếp đến… hầu như biết nói đấy! Tình cảm yêu mên của Thoóe-tơn đối với Bấc. Phần ba. Đoạn còn lại: Tình cảm gắn bó của Bấc đối với Thoóc-tơn,

Qua cách miêu tả và kể chuyện, ta thấy nhà văn chủ yếu muốn thể hiện lòng biết ơn và tình cảm yêu thương của con chó Bấc đối với người chủ giàu lòng nhân ái. Ở đoạn thứ nhất, tác giả kể về quan hệ của con chó Bấc đối với gia đình thẩm phán Mi-lơ là chủ để lấy đó làm cơ sở so sánh tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn: Với những cậu con trai của ông Thẩm, trong những buổi đi săn hoặc đi lang thang đây đó, tình cảm ấy chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường; với những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm, là trách nhiệm ra oai hộ vệ. Còn đối với bản thân ông Thẩm, đó là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng.

Mức độ tình cảm của Bấc đối với Thoóc-tơn lại hoàn toàn khác những tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt thì phải đến Giôn Thoóc-tơn mới khơi dậy lên được. Với con chó Bấc thì Giôn Thoóc-tơn là một ông chủ lí tưởng: Các ông chủ trước chăm sóc nó chỉ là vì nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh (trông nhà hoặc kéo xe trượt tuyết để đi tìm vàng) chứ không thực sự yêu thương nó.

Trước hết, ta hãy xem tình cảm của Thoóc-tơn đôi với con chó Bấc. Thoóc-tơn đối xử với bầy chó của anh như thể chúng là con cái của anh vậy. Riêng đối với Bấc, trong ý nghĩ và trong tình cảm, dường như anh không coi nó chỉ là một con chó, mà còn là một người bạn thân thiết: Con người này đã cứu sống nó đó là một lẽ; nhưng hơn thế nữa, anh là một ông chủ lí tưởng. Những người khác chăm nom chó của họ xuất phát từ ý thức về nghĩa vụ và về lợi ích kinh doanh; còn anh chăm sóc chó của mình như thể chúng là con cái của anh vậy, bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia. Anh không bao giờ quên chào hỏi thân mật hoặc nói lời vui vẻ và ngồi xuống chuyện trò lâu với chúng (mà anh gọi là (tầm phào), điều mà cả anh và chúng đều thích thú.

Anh có thói quen dùng hai bàn tay túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đẩy tới đẩy lui, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mà đối với Bấc lại là những lời nói nựng âu yếm. Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy và những tiếng rửa rú ri bên tai ấy và theo mỗi cái lắc đẩy tới đẩy lui, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi ca thể vì quá ngây ngất. Và khi được buông ra, nó bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động…Tình cảm của Thoóc-tơn biểu hiện rõ rệt nhất khi anh kêu lên, trân trọng: Trời đất ! Đằng ấy hình như biết nói đấy ! Anh coi Bấc như một người bạn tri âm, tri kỉ.

Trong đoạn văn này, mục đích chủ yếu của Lân-đơn là tập trung miêu tả những biểu hiện tình cảm của con chó Bấc. Trước đó, nhà văn kể về tình cảm của Thoóc-tơn đối với bầy chó của anh nói chung và đối với con chó Bấc nói riêng, nhằm nhấn mạnh tình cảm đặc biệt mà con chó Bấc dành cho anh. Không phải đối với bất cứ ông chủ nào con chó Bấc cũng yêu quý như với Thoóc-tơn vì Bấc đã qua tay nhiều ông chủ độc ác, chỉ riêng Thoóc- tơn là có lòng nhân từ với nó.

Đọc những dòng miêu tả Bấc, chúng ta sẽ thấy tài quan sát và sự hiểu biết của nhà văn đối với loài chó: Bấc có cái tài biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta. Nó thường hay há miệng ra cán lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc lâu. Và cùng như Bấc hiểu các tiếng rủa là những lời nói nựng, con người cũng hiểu cái cắn vờ ấy là cử chỉ vuốt ve.

Lân-đơn có những nhận xét tinh tế, tỉ mỉ khi miêu tả từng con chó trong bầy chó kéo xe. Những biểu hiện tình cảm của chúng là đặc điểm chung của loài chó nhưng nhà văn chú trọng đến nét riêng của mỗi con để làm nổi bật nét khác biệt của Bấc so với những con chó khác trong bầy. Bấc có tình cảm đặc biệt đối với Thoóc-tơn. Có lúc nó bày tỏ thái độ âu yếm qua những cái cắn vờ hoặc theo sát Thoóc-tơn không rời một bước : Tuy nhiên, tình thương yêu của Bấc phần lớn được diễn đạt bằng sự tôn thờ. Mặc dù nó sung sướng đến cuồng lên mỗi khi Thoóc-tơn chạm vào nó hoặc nói chuyện với nó, nhưng nó không săn dồn những biểu hiện ấy. Khác với cô ả Xơ-kít có thói quen thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay của Thooc-tơn rồi hích, hích mãi cho đến khi được vỗ về, cũng khác với Ních thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối của Thoóc-tơn,

Bấc chỉ tôn thờ ở xa xa một quãng. Nó thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hằng giờ, mắt háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt. Hoặc cũng có lúc nằm ra xa hơn, về một bên hoặc đằng sau anh, quan sát hình dáng của anh và từng cử động của thân thể anh. Và thường thường, như mối giao cảm giữa họ với nhau, sức mạnh ánh mắt của Bấc làm cho Giôn Thoóc-tơn quay đầu sang và nhìn lại nó, không nói năng gì, đôi mắt anh tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng, trong khi tình cảm của Bấc ngời ánh lên qua đôi mắt nó tỏa rạng ra ngoài.

Tình cảm của con chó Bấc được tác giả miêu tả cụ thể và tinh tế. Nhà văn không nhân cách hóa con chó Bấc theo kiểu của La Phông-ten trong thơ ngụ ngôn. Lúc muốn bày tỏ tình cảm với chủ, họng nó chỉ rung lên những âm thanh không thốt nên lời… Thoóc-tơn cảm thấy Bấc hầu như biết nói và anh thấu hiểu thế giới tâm hồn phong phú của nó: Trước kia, nó chưa hề cảm thấy một tình thương yêu như vậy…, Bấc thấy không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ ấy…, nó lại tưởng chừng như quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực…

Nhà văn kể rằng: Một thời gian dài sau khi được cứu sống, Bấc không muốn rời Thoóc-tơn một bước. Từ lúc anh ra khỏi lều cho đến lúc anh quay trở về, Bấc luôn bám theo gót chân anh. Việc thay thầy đổi chủ xoành xoạch từ khi nó đến vùng đất phương bắc đã làm nảy sinh trong lòng nó nỗi lo sợ là không người chủ nào có thể gán bó lâu dài. Nó sợ Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây.

Ngay cả ban đêm, trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Những lúc ấy, nó vội vùng dậy không ngủ nữa, trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ…

Đoạn văn trên vừa phản ánh trí tưởng tượng tuyệt vời của nhà văn, vừa nói lên tình yêu thương loài vật của ông. Điều mà ông muốn nhắn gửi tới chúng ta là hãy hết lòng thương yêu loài vật, nhất là những loài vật có nghĩa, có tình.

Phân tích tác phẩm Con chó Bấc – Bài văn mẫu số 3

Đọc Tiếng gọi nơi hoang dã của Lân-đơn, ta như được đi theo đoàn người đi đào vàng lên vùng A-lax-ca, Bắc cực mênh mông tuyết trắng, với những cảnh, những con người với bao ấn tượng mạnh mẽ, dữ dội không cùng. Đặc biệt những trang viết về con chó Bấc, viết về mối quan hệ cảm động giữa Giôn Thoóc-tơn với con chó Bấc là hay nhất, cảm động nhất. Nhà văn không miêu tả ngoại hình, sinh hoạt bản năng của con chó Bấc mà đi sâu vào thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của con vật, hình như mang nặng tình người hiếm có, cảm động. Đoạn văn Con chó Bấc là một đoạn văn ngọt ngào chất thơ khi nói về một tình thương giao cảm thắm thiết giữa người với vật nuôi.

Có lẽ vì đã trải qua những tháng ngày kéo xe trượt tuyết nặng nhọc, gặp phải những ông chủ độc ác, con chó Bấc mới hiểu sâu sắc thế nào là tình người. Miếng ăn của nó kiếm được là roi vọt, là sự bố thí của những con người tàn nhẫn và đang khát vàng. Cho nên từ ngày con chó Bấc được Giôn Thoóc-tơn cứu sống, nó mới được sống trong “một tình yêu thương thực sự vù nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Nó cũng đã một lần ít ỏi được hưởng hương vị của tình thương khi chưa bị bắt cóc lên bắc cực, đó là những ngày sống trong nhà ông Thẩm phán Mi-lơ giữa thung lũng Xan-ta Cla-ra mơn man ánh nắng.

Con Bấc chẳng bao giờ quên những ngày tháng êm đẹp và ngắn ngủi ấy. Những lần đi săn, đi lang thang với mấy cậu con trai ông Thẩm “tình cảm của Bấc cũng chỉ là thứ tình cảm làm ăn cùng hội cùng phường”. Với các cháu nhỏ ông Thẩm “đó là một thứ trách nhiệm hộ vệ trong niềm kiêu hãnh tự cao tự đại”. Còn với ông Thẩm “là thứ tình bạn trịnh trọng và đường hoàng”.Lân-đơn đã có một cách nói rất đặc sắc về mối quan hệ của Bấc với những thành viên trong gia đình Thẩm phán Mi-lơ. Bấc chỉ là một con chó săn, một con chó giữ nhà, và là một con chó cảnh. Thế thôi!

Còn từ ngày nó được sống với Giôn Thoóc-tơn, nó được ông chủ, ông bạn mới “khơi dậy” lên trong lòng Bấc những tình thương yêu, những tình cảm chưa hề được hưởng, chưa hề có: “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt... " Tinh cảm vui, buồn, thương yêu, giận dữ cũng tựa như dòng nước có độ tràn, có hẹp và mênh mông, có sức chảy nhanh, chậm. Mọi dòng nước đều có nguồn cũng như mọi tình cảm đều có nguồn. Cái nguồn tình cảm sâu xa mà Bấc tìm thấy ở Giôn Thoóc-tơn là anh đã “cứu sống nó”, anh là “ông chủ lý tưởng”.

Những người khác nuôi Bấc là xuất phát từ nghĩa vụ và lợi ích kinh doanh để Bấc đi săn, giữ nhà, là vật nuôi làm cảnh và để kéo xe trượt tuyết đi tìm vàng. Còn Giôn Thoóc-tơn đã coi Bấc là “con cái của anh” vậy. Cái nguồn gốc ấy mới sâu sắc và cao quý, vì nó đã vượt hẳn mối quan hệ con vật với con người, đi tới mối quan hệ của tình thương, tình người. Mối quan hệ tình cảm ấy, con Bấc đã cảm nhận được bằng trực giác, bằng cảm xúc, bằng sự tinh nhậy, khôn ngoan mà chỉ có những con chó như con Bấc mới có.

Giôn Thoóc-tơn "đã chăm sóc”, lúc là một lời chào “hớn hở’’, lúc là một cử chỉ “thân ái", lúc là anh ngồi xuống rất lâu “nói chuyện” với Bấc mà cả hai đều tương thân, đều đồng cảm, đều “thích thú”. Giôn Thoóc-lơn “có thói quen túm chặt lấy đầu Bấc rồi đưa đầu anh vào đầu nó, hoặc lắc nó đảo qua đảo lại, vừa lắc vừa khe khẽ thốt lên những tiếng rủa mù đối với nó lại là những lời nói nựng âu yếm". Với con Bấc, đó là những giây phút thần tiên mà chỉ có Giôn Thoóc-tơn mới trao cho nó trong sự vuốt ve, yêu thương. Lúc đó, con Bấc cảm thấy “không có gì vui sướng bằng cái ôm ghì mạnh mẽ", "tiếng rủa rủ rĩ bên tui”. Sự vui sướng của Bấc đến cực độ, có lúc nó cảm thấy “quả tim mình nhảy tung ra khỏi lồng ngực”

Tình yêu thương giữa người và vật nuôi cũng có “cho" có "nhận” trong mối giao cảm, giao hòa, tương tác. Đây là một đoạn văn tuyệt bút nói về mối quan hệ sâu sắc, đẹp đẽ và hiếm có ấy: “Khi được buông ra, nó bật đứng dậy thẳng lên, miệng cười, mắt hùng hồn diễn cảm, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời, và cứ như vậy trong tư thế đứng yên bất động. Những lúc ấy, Giôn Thoóc-tơn lại kêu lên, trân trọng: “Trời đất! Đằng ấy hầu như biết nói đấy!”.Bấc như một đứa trẻ giàu tình cảm, nó “có một kiểu biểu lộ tình thương yêu gần giống như làm đau người ta”. Nó hay cắn vào tay Giôn Thoóc-lơn "ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hằn vào da thịt một lúc sau mới mất”. Và chỉ có anh mới cảm nhận một cách hạnh phúc rằng “cái cắn vờ ấy là cử chỉ âu yếm, yêu thương”.

Lân-đơn với tình yêu thương loài vật, với cái tài quan sát và diễn tả, đặc biệt ông đã phát hiện ra, đã “sống" với những rung động, với những biến thái tâm tình, ông đã tả, hiểu được” ngôn ngữ riêng của một vật nuôi đã được thuần dưỡng và gắn bó lâu đời với con người, một vật nuôi khôn nhất, trung thành nhất và giàu tình cảm nhất, để nói lên một cách xúc động về mối quan hệ “sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến mức tôn thờ, thương yêu đến mức cuồng nhiệt” giữa Giôn Thoóc-tơn và con Bấc.

Nếu như phần đầu, nhà văn đã lấy mối quan hệ giữa con Bấc với gia đình Thẩm phán Mi-lơ để làm nổi bật mối tình yêu thương đặc biệt giữa con Bấc với Giôn Thoóc-tơn, thì ở phần giữa ông lại so sánh cách biểu hiện tình cảm của con Bấc và những con chó khác đối với chủ, mỗi con một vẻ. “Xơ-kit có thói quen thọc cúi mũi của nó vào dưới bàn tay của Thoóc-tơn rồi hích, hích mũi cho đến khi được vỗ về. Lúc thì tựa cái đầu to lớn của nó lên đầu gối của Thoóc- tơn”. Còn Bấc thì diễn đạt tình thương yêu bằng "sự tôn thờ”, sung sướng đến “cuồng lên ” khi được Thoóc-tơn “vuốt ve” hoặc "nói chuyện ” với nó. Thế giới loài vật được Lân-đơn nhìn nhận và miêu tả như thế giới con nguời tràn ngập tình yêu thương và biết sống trong sự giao cảm đầy hạnh phúc!

Con Bấc “thường nằm phục ở chân Thoóc-tơn hàng giờ, mắt hau háu, tỉnh táo, linh lợi, ngước nhìn thẳng vào mặt anh, chăm chú vào đấy, xem xét kỹ nét mặt, theo dõi với một mối quan tâm đặc biệt từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên thần sắc”. Có lúc con Bấc ngắm nhìn chủ từ phía sau, và bằng linh cảm, giao cảm giữa người và chó, anh quay đầu nhìn lại, đôi mắt Thoóc-tơn “tỏa rạng tình cảm tự đáy lòng”, còn “tình cảm của Bấc cũng ngời ánh lên qua đôi mắt nó. Cách ngồi, cái ngước nhìn, cái lắng nghe và theo dõi cặp mắt và ánh mắt của con chó Bấc hiện lên trên trang văn như một linh hồn người, trong biểu cảm có chiều sâu lí trí, trong tâm hồn có cả chiều cao của tư duy. Con chó Bấc không chỉ có tình yêu thương mà còn có cả những suy nghĩ sống bên “Ông chủ lí tưởng”.

Con chó Bấc cũng có nỗi lo. Cuộc đời ba chìm bảy nổi đã qua, luôn luôn ám ảnh nó, "nó không muốn rời Thoóc-tơn ra một bước". Nó luôn luôn sợ, Thoóc-tơn cũng lại biến khỏi cuộc đời của nó như Pê-rôn và Phơ-răng-xoa và anh chàng người lai Ê-cốt đã đi qua rồi biến mất trước đây. Cả trong giấc mơ, nó cũng bị nỗi lo sợ này ám ảnh. Đêm nào nó cũng tỉnh giấc giữa chừng, rồi trườn qua giá lạnh đến đứng ở mép lều "lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ". Chi tiết ấy là một nét vẽ cảm động gợi lên trong lòng ta nhiều cảm thương xót xa. À ra thế đó, không chỉ riêng ở con người, mà cả những vật nuôi như con chó Bấc tinh khôn, tình cảm này cũng sợ ly biệt! Nhà văn Lân-đơn đã nói được điều đó và diễn đạt bằng những hình ảnh giàu giá trị nhân bản.

Tóm lại, Lân-đơn đã lấy tình thương đổ tả loài vật. Ông đã miêu tả sống động, hấp dẫn con chó mang tình người. Nó đã sống tình nghĩa thủy chung như con người. Chúng ta học lập ở Lân-đơn nghệ thuật tinh tế, biểu cảm trong miêu tả loài vật. Con chó Bấc nhân hậu, tình nghĩa đã làm cho thế giới tâm hồn chúng ta trở nên phong phú đối với những vật nuôi trong gia đình. Biết sống trong tình người, trong tình thương là cách sống đẹp nhất.

Phân tích tác phẩm Con chó Bấc – Bài văn mẫu số 4

Sự gắn bó đến mức yêu thương quyến luyến giữa con người với con vật và giữa con vật với con người là điều hết sức tự nhiên. Con người quý con vật vì chúng là những vật nuôi có ích, còn con vật thì hiền lành, nhớ bổn phận và biết đền ơn. Song quan hệ chỉ dừng ở đó, ở chỗ con vật nuôi dù quý chủ đến đâu cũng chỉ có tính chất bản năng. Tục ngữ có câu "Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng" thể hiện một phần tính chất bản năng đó. Tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã với trích đoạn Con chó Bấc lần đầu tiên có một cái nhìn mới mẻ hơn, sâu sắc hơn, thấm thìa và cảm động hơn rất nhiều về mối quan hệ vốn giản đơn, quen thuộc ấy. Cái nhìn đậm chất nhân văn, sáng tạo trong cách thể hiện, mang đến cho con người một hạnh phúc nho nhỏ nhưng đáng quý biết bao.

Tình cảm của Thoóc-tơn với con chó Bấc là tình cảm yêu thương đậc biệt. Bấc là kẻ thấu hiểu và mang ơn. Trong ý nghĩ thầm kín và sâu xa, nó cảm thấy diễm phúc được gặp con người này, con người không chỉ cứu sống nó mà còn là một người cha. Chỉ là một người cha mới có khả năng chăm sóc "con cái" của mình như vậy, chăm sóc chu đáo, tận tình và không còn giới hạn của sự thương yêu. Vì sao lại như thế, Bấc chỉ còn biết tự trả lời "bởi vì anh không thể nào không chăm sóc. Và anh còn chăm sóc nhiều hơn nữa kia". Ấy là chưa nói cái cách chăm sóc của Thoóc-tơn không giống bất kì ai và hơn bất kì ai, hơn những cậu con trai của ông Thẩm, hơn những đứa cháu nhỏ của ông Thẩm đã đành, còn hơn cả cách đối xử "trịnh trọng và đường hoàng" của chính ông Thẩm nữa. Cái cách mà Thoóc-tơn chuyện trò, những lời mà anh rủ rỉ được gọi là "tầm phào" ấy làm cho cả hai (người nói và kẻ nghe) thích thú. Còn thích thú hơn nữa, ấy là cử chỉ thân ái của anh "túm chặt lấy đầu Bấc rồi dựa đầu anh vào đầu nó".

Trong những phút cao hứng này, Bấc còn nghe những tiếng rủa từ miệng anh khe khẽ thốt lên mà nó cho là "những lời nói nựng âu yếm". Hạnh phúc lớn lao mà con Bấc có được từ Thoóc-tơn là không có gì so sánh được, "không có gì vui sướng bằng". Những lúc được "đẩy tới đẩy lui" như thế của Thoóc-tơn, nó tưởng như "quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể". Còn lúc buông ra rồi, nó như một đứa trẻ "bật vùng dậy trên hai chân, miệng cười, mắt long lanh". Những âm thanh trong họng Bấc rung lên "không thốt nên lời" làm cho chính Thoóc-tơn không chỉ ngạc nhiên và mừng rỡ : "Trời đất ! Đằng ấy hầu như biết nói đấy !". Đó là một đứa trẻ đang học nói, đang muốn nói bằng một thứ ngôn ngữ riêng mà con người vẫn có khả năng hiểu được. Điều kì lạ này không phải lúc nào cũng có thể xảy ra. Tất cả từ tấm lòng của Thoóc-tơn với con vật của mình. Tình yêu ấy, qua cảm nghĩ của Bấc được miêu tả bằng biện pháp song hành : lúc thì cử chỉ, khi thì lời nói, mở ra nhiều bình diện và nâng cấp, mỗi lúc một trìu mến, thương yêu lại tăng lên một bậc, tình nghĩa của Thoóc-tơn thật dồi dào không còn gì là giới hạn nữa.

Tình cảm của con Bấc đối với Thoóc-tơn là tình cảm tương ứng với những gì nó nhận được. Đó là thái độ thật sự mang ơn và ý thức đền ơn sâu sắc. Về thái độ chịu ơn, là con vật, Bấc suy nghĩ như một con người. Nó phân biệt được đúng sai và mức độ khác nhau của lòng tốt. Trước lúc gặp Thoóc-tơn, với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ biết đến mối quan hệ "chỉ là chuyện làm ăn cùng hội cùng phường" với những cậu con trai ông Thẩm nó chỉ có trách nhiệm "ra oai hộ vệ". Riêng với ông Thẩm, nó nhận được tình bạn "trịnh trọng và đường hoàng" có nghĩa là vẫn có gì như xa cách, vẫn không có gì nhiều hơn cái "ý thức về nghĩa vụ và vể lợi ích kinh doanh". Chỉ tới khi gặp được Thoóc-tơn, nó mới lạ lùng và choáng ngợp trước một cái gì lớn lao chợt đến. Ấy là tình thương yêu.

Câu văn miêu tả tâm trạng của Bấc như một tiếng reo vui: "Tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn lần đầu tiên phát sinh ra bên trong nó". Bấc ngẫm nghĩ để rồi xác nhận một cái gì được khơi lên trong cơ thể, trong tâm hồn từ trước vẫn ngủ yên của nó, một "tình thương yêu sôi nổi, nồng cháy, thương yêu đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt". Giữa cuộc đời rộng lớn, Bấc đã gặp không ít người, nhưng chỉ với Thoóc-tơn, nó mới nhận ra mái nhà của nó, nó mới thực sự thương yêu. Thái độ của nó là trách nhiệm của kẻ đền ơn, lấy thương yêu đền đáp lại thương yêu (chứ không phải là công lao kéo xe trượt tuyết giúp chủ tìm vàng ở vùng Bắc cực). Và cái cách đền ơn - nghĩa là ngôn ngữ của lòng thương yêu của nó cũng đặc biệt, trước hết vẫn là của một con vật tình nghĩa với con người, biểu lộ tình thương yêu gần giống nhừ làm đau người ta. Bấc thường "há miệng ra cắn lấy bàn tay Thoóc-tơn rồi ép răng xuống mạnh đến nỗi vết răng hàn vào da thịt một lúc lâu". Bởi nó hiểu cử chi cắn vờ ấy là "cử chỉ vuốt ve".

Tuy vậy, Bấc cũng là một con vật có bản lĩnh, nó biết tiết chế sự "vuốt ve". Ở điểm này nó khác hẳn với cô ả Xơ-kít có thói quen "thọc cái mũi của nó vào dưới bàn tay" của chủ cho đến khi được vỗ vé, cũng khác với con Ních "thường chồm lên tì cái đầu to tướng của cu cậu lên đầu gối Thoóc-tơn". Không táo tợn mà lặng lẽ, thâm trầm "xem xét" và theo dõi "từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc đổi thay trên nét mặt" Thoóc-tơn không phải để ngờ vực hay xét đoán vu vơ mà bằng niềm sung sướng thầm thì với đôi mắt "háo hức, tỉnh táo, ngước nhìn lên" thật là mãn nguyện. Chỉ cần thế thôi, thậm chí còn "xa hơn", nó hiểu rằng cái gì sẽ đến. Giác quan đặc biệt từ sợi dây thần kinh mơ hồ mách bảo và nó đón nhận. Chỉ cần sức mạnh của ánh mắt Bấc không lời như thế, Thoóc-tơn sẽ quay đầu sang nhìn lại nó và đôi mắt anh "toả rạng tình cảm tự đáy lòng", còn nó, đôi mắt nó cũng "ngời lên" như thế. Chỉ có điều, hạnh phúc đến với nó vì quá to lớn nên rất đỗi mong manh. Nó sợ đến một lúc nào đó, một ngày nào đó, giấc mơ đẹp đẽ kia chỉ còn là ảo ảnh, sẽ biến mất, sẽ tuột khỏi tầm tay.

Thực tế thường phũ phàng, cay đắng. Một con vật như nó nào có giá trị gì, việc thay đổi chủ nuôi như người thay áo, diễn ra luôn "xoành xoạch" như nó đã biết từ khi nó có mặt ở phương Bắc lạnh giá tới nay. Một ám ảnh, một cơn ác mộng vụt đến nếu như số phận của nó như những cuộc gặp gỡ vô duyên trước đó với Pê-rôn, Phư-răng-xoa, hay anh chàng người lai Ê-cốt. Vì thế, bằng cách của nó, theo cách nghĩ của nó, Bấc phải tìm cách đẽ phòng, phải gìn giữ. Cả ban ngày, lẫn ban đêm. Đêm đêm, trong nỗi lo sợ mơ hồ, Bấc thường đang ngủ vùng dậy "trườn qua giá lạnh đến tận mép lều, đứng đấy, lắng nghe tiếng thở đều đều của chủ". Chỉ có tiếng thở bình yên của chủ mới có thể làm cho thần kinh hoảng loạn của Bấc trở về với trạng thái thăng bằng.

Bài văn là trích đoạn của một tiểu thuyết, nó chỉ là một mảnh nhỏ của đời sống hiện thực, một tâm trạng ở vào khoảnh khắc trong mối giao lưu giữa con vật với con người. Tính độc lập và trọn vẹn của đoạn văn chỉ là tương đối. Tuy vậy, ta vẫn nhận ra một tài năng trên nhiều phương diện. Đặc điểm bao trùm về mặt thể loại sáng tác là miêu tả kết hợp với chứng minh. Chứng minh ấy tạo nên cái mạch kết cấu toàn đoạn bắt đầu từ một nhận định mở đầu về tình yêu thương ở một con vật như con Bấc. Cái cách mà con Bấc chịu ơn và tìm cách đền ơn dường như rất dễ chia đoạn cũng bởi phương pháp chứng minh như vừa nói. Nhưng đi sâu vào các chi tiết về ý nghĩ và tâm trạng của con Bấc, ta lại gặp một thiên tài.

Ngòi bút miêu tả tâm trạng của con vật thật tinh tế mang nhiều màu sắc trữ tình tạo được ấn tượng sâu xa của lòng cảm mến. Biện pháp tu từ ở trích đoạn trên đây chủ yếu là biện pháp so sánh. So sánh tình cảm ớ những cung bậc khác nhau (ví dụ, giữa Bấc với gia đình Thẩm phán và giữa nó với người chủ mới Thoóc-tơn, so sánh giữa con vật này với con vật khác (so sánh với Xơ-kít, Ních), nhất là so sánh giữa con vật với con người khi Bấc vùng dậy trên hai chân với đôi mắt long lên đầy phấn khích. Trông nó không khác một con người chỉ có điều âm thanh mà nó phát ra chưa thật rõ ràng, rành mạch. Câu văn trong trích đoạn hầu hết là câu văn dài, nhiều vế, tạo nên sự trùng điệp cho cảm nghĩ đa tầng. Dụng ý ấy không ngoài mục tiêu khắc hoạ tính cách một con vât rất gần người - con Bấc. Chẳng hạn "con người này đã cứu sống nó, đó là một lẽ, nhưng hơn thế nữa…". "Những người khác chăm nom chó của họ… còn anh…". "Bấc thấy không có gì vui sướng bằng…".

Những câu văn vừa gợi mở vừa trang trọng ấy gần với thơ ca, những vần thơ ca ngợi vẻ đẹp rất đáng ngợi ca. Tinh cảm cao quý giá giữa con người với con vật và một hồi âm ít nhất là như thế giữa con vật với con người.

Phân tích tác phẩm Con chó Bấc – Bài văn mẫu số 5

Tiếng gọi nơi hoang dã là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn người Mĩ, Jack London, người vẫn thường được so sánh với nhà văn vĩ đại của Nga - M. Gorki. Tác phẩm khác biệt ở chỗ nhân vật chính không phải là một con người mà là một chú chó có tên là Bấc, nó đã từng được thuần hóa và có một thời gian sống chung với con người, có những lúc chú đã rất hạnh phúc vì được cưng chiều. Nhưng bất hạnh thay cuộc đời của Bấc không mãi bằng phẳng, nó đã phải trải qua nhiều biến cố gian nan, vất vả phải vật lộn với cái lạnh, cái rét giữa vùng đất tuyết Alaska để kéo xe cho những người đào vàng. Và cuối cùng cuộc sống thiên nhiên hoang dã đã thức tỉnh bản năng của loài chó sói bên trong Bấc, nó quyết định từ bỏ cuộc sống thuần chủng trở về với mẹ thiên nhiên, sống chung với loài sói.

Đoạn trích Con chó Bấc kể về giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời của Bấc khi nó gặp được người chủ nhân từ, hết lòng yêu thương cưng chiều, sau những tháng ngày qua tay nhiều chủ khác nhau. Hình ảnh Bấc được nhà văn xây dựng khéo léo và xúc động, thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, đầy yêu thương cũng như nhiều lo âu của một con vật từng bị tổn thương quá nhiều.

Trước khi gặp Thooc-tơn, Bấc mang thân phận là một chú chó thuần chủng, nhưng tâm hồn của nó luôn ám ảnh một cô đơn, lạnh lẽo và trống trải, bởi từ khi sinh ra đã phải gặp nhiều những thăng trầm trong cuộc sống, từ việc đổi chủ nhiều lần khiến nó không tài nào thích nghi được, đến việc phải kéo xe giữa trời tuyết giá lạnh đến độ suýt chết. Chính bởi điều nó đã nảy sinh trong tâm hồn của Bấc những nỗi sợ vô hình về việc không có người chủ nào có thể gắn bó lâu dài với nó, thành ra Bấc cũng không dám đặt quá nhiều tình cảm, bởi nó sợ mất mát, sợ cảm giác trống trải đến ám ảnh cả trong mơ.

Chỉ đến khi gặp Thooc-tơn Bấc mới lại dần mở lòng mình ra lần nữa và lần này nó thực sự yêu quý và muốn gắn bó mãi mãi với người chủ nhân từ, bao dung và hết mực yêu thương nó cho nó cảm giác về một mái ấm, cho nó "tình yêu thương, một tình yêu thương thực sự và nồng nàn". Thứ tình cảm ấy khác hẳn với những gì mà nó từng nếm trải trong đời, đó không phải là kiểu tình cảm "làm ăn cùng hội cùng phường, là "trách nhiệm ra oai hộ vệ", hay thứ tình cảm có phần lịch sự xa cách "trịnh trọng và đường hoàng".

Trước khi gặp Thooc-tơn Bấc không biết và cũng không hiểu thế nào là một gia đình, bởi những người chủ trước đó đã không cho nó được hơi ấm, được tình yêu thương cũng như sự cưng chiều trân trọng như một người bạn, người thân thiết, họ chỉ đơn giản coi nó là một con vật nuôi dùng vào những mục đích khác nhau. Chính vì thế nên Bấc phải chịu cảm giác cô đơn trống trải trong một thời gian dài, có lẽ vì xót thương cho con vật có tâm hồn tổn thương và mất mát thế nên thượng đế đã để nó gặp được Thooc-tơn, người chủ cuối cùng, cho nó một quãng thời gian thật hạnh phúc, được đếm trải thứ tình cảm mới lạ, "sôi nổi, nồng cháy, yêu thương đến tôn thờ, thương yêu đến cuồng nhiệt".

Bấc không được miêu tả rõ ràng về hình dáng, kích thước hay bộ lông thay vào đó tác giả lại tập trung làm nổi bật tâm hồn Bấc và cách mà Bấc yêu thương chủ, từ đó có thể thấy rằng Bấc là một chú chó vô cùng thông minh và có linh tính. Bấc thấu hiểu tất cả những tình cảm mà Thooc-tơn đã dành cho mình, sự cưng chiều che chở, tấm lòng yêu thương của Thooc-tơn đối với nó không chỉ đơn giản là của một người chủ đối với thú cưng mà nó đã vượt qua giới hạn giống loài, giữa Bấc và Thooc-tơn tồn tại một thứ gọi là tình cảm gia đình mà ở đó, Bấc là đứa con bé bỏng ngoan ngoãn được nâng niu, quý báu. Bấc đủ khôn ngoan để nhìn nhận được sự tử tế, nhân từ và tấm lòng yêu thương vô bờ bến của người chủ mới thế nên dần dà trong tâm hồn nó đã có những biến đổi nhất định, nó cũng muốn đáp lại, đối xử với Thooc-tơn như cái cách mà anh đã làm với nó.

Dĩ nhiên rằng Bấc không thể bày tỏ tình cảm bằng những lời mắng yêu, những câu trò chuyện thì thầm mà Thooc-tơn vẫn thường dành cho nó mỗi ngày, nhưng Bấc biết cách dùng hành động để chứng minh tình cảm của mình với người chủ yêu quý. Sống bên cạnh Thooc-tơn cứ mỗi lần được âu yếm là Bấc lại cảm thấy "quả tim mình nhảy tung ra khỏi cơ thể vì quá ngây ngất", và để đáp lại thứ tình cảm tuyệt vời lâng lâng ấy Bấc dùng tư thế đặc biệt của loài chó để hưởng ứng "nó bật dậy bằng hai chân, miệng cười, mắt long lanh, họng rung lên những âm thanh không thốt nên lời", dường như thể nó đang muốn nói lời gì đó với Thooc-tơn rằng nó đang xúc động, đang quá đỗi sung sướng, nó chưa từng được hạnh phúc như thế này vậy.

Sự thông minh và ngoan ngoãn vượt bậc của Bấc cũng khiến Thooc-tơn phải bật thốt lên rằng "Trời đất, đằng ấy cứ như biết nói ấy!", biểu lộ rằng anh cũng hiểu những gì Bấc muốn nói, điều đó lại càng khiến Bấc hạnh phúc hơn. Rồi có lẽ xuất phát từ cuộc đời cô đơn và lạnh lẽo quá lâu thế nên khi gặp Thooc-tơn Bấc được hưởng quá nhiều niềm vui thế nên nó lại càng trân trọng, càng sợ mất đi, nó vẫn thường "cắn yêu" vào đôi bàn tay của, đến mức hằn cả vết răng vừa như một cách đánh dấu chủ quyền, vừa là cách Bấc bộc lộ Thooc-tơn về tình cảm sâu nặng mà nó dành cho anh. Hoặc cũng có khi là Bấc muốn nắm lấy đôi bàn tay ấm áp và bao dung của người chủ đáng kính không xa rời.

Nhưng nổi bật hơn cả ngoài những hành động "quá trớn" do quá xúc động thì bình thường Bấc lại dành phần lớn thời gian để dành cho Thooc-tơn thứ tình cảm tôn thờ. Bấc thông minh và biết điều, nó biết ơn người chủ đã ra tay cứu nó khỏi cái chết, cái đói, cái lạnh lẽo, cái mệt mỏi của của sống đày ải ở Alaska, thế nên trong mắt nó có lẽ Thooc-tơn không chỉ là một người chủ mà đích thực là người đã tái sinh cuộc đời của nó thêm lần nữa. Thế nên mọi tình cảm của Bấc chỉ muốn xoay quanh chủ, sống và tôn thờ chủ không rời một phát giây, nhưng nó không dám đòi hỏi quá nhiều, phần lớn thời gian Bấc dùng để yên lặng bên cạnh Thooc-tơn. Không phải là nó không muốn được vuốt ve nhưng nó đã kiềm mình lại để không săn đón tình cảm của Thooc-tơn, nó không muốn chủ của mình thấy phiền chán, dường như ta cảm nhận được bên cạnh một tâm hồn yêu thương, sung sướng cuồng nhiệt là một tâm hồn cẩn thận và có chút dè dặt, tinh tế của Bấc.

Nó luôn biết cách khiến chủ hài lòng, nó luôn ngoan ngoãn, tôn trọng chủ, luôn nằm phục dưới chân Thooc-tơn hàng giờ, "mắt háo hức, tỉnh táo, ngước lên mặt anh, chăm chú xem xét, hết sức quan tâm theo dõi từng biểu hiện thoáng qua, mọi cử động hoặc thay đổi trên nét mặt". Điều đó có thể thấy rằng Bấc vô cùng trân trọng khoảng thời gian được ở bên Thooc-tơn bằng một tâm hồn nhạy cảm, bằng một thứ tình cảm thiêng liêng, gắn bó đặc biệt như một gia đình. Tuy nhiên cuộc sống quá hạnh phúc cũng khiến Bấc trở nên nhạy cảm, lo được lo mất nhiều hơn, bởi nó ý thức được rằng có lẽ không còn ai có thể yêu thương và đối xử với nó tốt như vậy ngoài Thooc-tơn. Thế nên ngay cả trong mơ Bấc vẫn luôn lo sợ về một cuộc sống cô độc, lạnh lẽo sẽ lặp lại lần nữa, điều ấy khiến ta càng thương xót cho một chú chó thông minh nhưng gặp nhiều trắc trở trong cuộc đời.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tài tình, đặc biệt là cách khắc họa nội tâm của một nhân vật đặc biệt - chú chó Bấc, nhân vật không hề có một lời thoại nào John London đã thành công ghi vào lòng người đọc ấn tượng về một chú chó thông minh, ngoan ngoãn,với tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Đồng thời qua đó tác giả đề cao thứ tình cảm vượt qua giới hạn giống loài của Thooc-tơn và Bấc, họ đã đối xử với nhau như những người bạn tri âm, tri kỷ, dành cho nhau những tình cảm thiêng liêng đáng quý, thấu hiểu lẫn nhau tựa như một gia đình.