Văn học Đại Việt ở giai đoạn đầu mang đặc điểm gì nổi bật?
Văn học Đại Việt ở giai đoạn đầu mang nặng tư tưởng Phật giáo. Xuất phát từ lí do thời kì này Phật giáo vẫn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và phổ biến.
Việc quyết định cho dựng bia Tiến sĩ dưới thời Lê không mang lại tác dụng gì?
Năm 1484, nhà nước thời Lê đã quyết định dưng bia, ghi tên Tiến sĩ. Sự kiện nào mang lại ý nghĩa:
- Ghi danh những người có trí thức tài giỏi đỗ đạt trong các kì thi.
- Cổ vũ, khuyến khích hoạt động học tập, thi cử trong nhân dân.
Đáp án D: là ý nghĩa của cả nền giáo dục dân tộc từ thế kỉ X đến XV nói chung.
Thơ văn Đại Việt trong các thế kỉ XI đến XV có đặc điểm gì nổi bật?
Thơ văn Đại Việt các thế kỉ XI - XV mang những đặc điểm sau:
- Thể hiện tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, tự hào dân tộc.
- Ca ngợi những chiến công oai hùng, cảnh đẹp quê hương đất nước, ca ngợi đất nước phát triển.
Ý nào không minh chứng cho luận điểm đạo Phật luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng dưới thời Lý – Trần?
Thời Lý – Trần, đạo Phật luôn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, biểu hiện là:
- Nhà sư được triều đình tôn trọng, có lúc cùng tham gia bàn việc nước.
- Khắp nơi trong cả nước, đâu đâu cũng có chùa chiền được xây dựng.
- Vua, quan nhiều người theo đạo Phật, góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, viết giáo lí đạo Phật.
Đáp án C: nhà nước thời Lý – Trần không hề có chính sách cấm đoán với các tôn giáo khác.
Biểu hiện nào chứng tỏ sự duy trì của văn học chữ Hán ở Đàng Trong?
Từ thế kỉ XVI đến XVIII, cùng với sự suy thoái của Nho giáo, văn học chữ Hán đã mất dần vị thế vốn có của nó trong thời Lê Sơ. Tuy nhiên ở Đảng Trong cũng đã xuất hiện một số nhà thơ và hội thơ. Bên cạnh đó, xuất hiện một so nhà nghiên cứu và biên soạn, sưu tập thơ văn, một số người viết truyện kì, ….
=> Biểu hiện chứng tỏ sự duy trì của văn học chữ Hán ở Đảng Trong là xuất hiện một số nhà thơ và hội thơ.
Giáo dục nho giáo từ thế kỉ XI đến XV có gì hạn chế?
Từ thế kỉ XI đến XV, giáo dục Nho giáo phát triển. Nho giáo trở thành hệ tư tưởng quan trọng của nhà nước nên là nội dung quan trọng trong thi cử. Tuy nhiên, giáo dục Nho học lại không tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Đây là điểm hạn chế của giáo dục Nho học từ thế kỉ XI đến XV.
Ý nào sau đây không phản ánh đúng tình hình phát triển của khoa học – kĩ thuật nước ta từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII ?
Những thành tựu về khoa học – kĩ thuật của nước ta từ thế kỉ XVI đến XVIII bao gồm:
- Sử học: Ô châu cận lục, Đại Việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Đại Việt sử ký tiền biên, Thiên Nam ngữ lục.
- Địa lý: Thiên nam tứ chi lộ đồ thư.
- Quân sự: Khổ trướng khu cơ của Đào Duy Từ.
- Triết học: có Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn.
- Y học: có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
- Kỹ thuật: đúc súng đại bác theo kiểu phương Tây, đóng thuyền chiến, xây thành luỹ.
=> Khoa học kĩ thuật thời kì này có xuất hiện nhiều công trình về sử học, địa lý, quân sự, y dược, nông học,….Số công trình khoa học tăng lên và có một số thành tựu kĩ thuật phương Tây được du nhập vào nước ta. Tuy nhiên, khoa học tự nhiên thời kì này vẫn chưa được quan tâm phát triển.
Thành tựu kĩ thuật nào sau đây không phải của nhà Hồ?
Dưới thời nhà Hồ, nhu cầu quốc phòng đã tạo điều kiện cho các quan xưởng, dưới sự chỉ đại của Hồ Nguyên Trừng, chế tạo súng thần cơ và đóng các chiến thuyền có lầu. Thành nhà Hồ (ở Thanh Hóa) cũng là một thành tựu kĩ thuật quan trọng.
Tại sao Phật giáo thời Lê sơ lại không phát triển như thời Lý – Trần?
* Phật giáo rất phát triển dưới thời Lý, Trần vì:
- Phật giáo vốn được du nhập vào nước ta từ lâu, đã ăn sâu trong tâm thức người Việt.
- Nhà Lý, Trần tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Vua, quan thời Lý, Trần nhiều người theo đạo Phật, góp tiền xây dựng chùa, đúc chuông, tô tượng, viết giáo lí nhà Phật. Chùa chiền được xây dựng ở nhiều nơi. Các nhà sư được triều đình tôn trọng, được tham gia vào bàn bạc các công việc của đất nước.
* Đến thời Lê sơ lại không phát triển vì:
- Cùng với việc hoàn thiện bộ máy nhà nước phong kiến theo hướng quân chủ chuyên chế thì những tư tưởng của Nho giáo đã trở thành công cụ để duy trì và bảo vệ trật tự của xã hội phong kiến. Vì vậy, Nho giáo được nâng lên chiếm vị trí độc tôn trong xã hội.
- Nhà nước phong kiến còn ban hành nhiều điều lệ nhằm hạn chế sự phát triển của Phật giáo, đưa Phật giáo xuống hàng thứ yếu.
Chính sách “độc tôn Nho giáo” của nhà Lê sơ trên thực tế được thực hiện ở mức độ nào?
Các nhà vua thời Lê sơ đã từ bỏ chính sách khoan dung Tam giáo đồng nguyên của nhà nước thời Lý - Trần để chuyển sang một chính sách văn hóa đơn nguyên quan phương, độc tôn Nho giáo và Nho học. Ở đây, Tống Nho đã được đề cao như một hệ tư tưưởng chính thống nhà nước, làm bệ đỡ tư tưởng cho chế độ quân chủ quan liêu. Khẩu hiệu chiến lược “Sùng Nho trọng Đạo là việc hàng đầu” (Bia Văn Miếu – 1442) đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Văn Miếu – Quốc Tử Giám được mở rộng, giáo dục khoa cử Nho học được kiện toàn. Lê Thánh Tông còn cho ban bố trong nhân dân “24 điều giáo huấn” để củng cố những nguyên tắc cơ bản về đạo đức và lễ giáo Nho giáo. Chính ông đã nói: “Tất cả đều do cái mũ của nhà Nho mà ra”. Ngô Sĩ Liên khẳng định “vua tôi, cha con, vợ chồng là 3 cương lớn trong đạo luân lý của người, ngoài ra không có gì lớn hơn”.
Tuy nhiên, dù không được Nhà nước khuyến khích nhưng Phật, Đạo thời Lê sơ vẫn tồn tại trong xã hội, được mọi giới thừa nhận nhất là quần chúng nhân dân. Lê Sát cho xây chùa Thanh Đàm, Chiêu Độ rộng 90 gian. Chùa Báo Thiên ở kinh thành vẫn được mở rộng, rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về để cầu đảo Nho sĩ Lương Thế Vinh đã soạn sách Phật (Thiền môn khoa giáo), soạn bia chùa Diên Hựu. Các đền thờ thần linh, các danh nhân lịch sử văn hóa và các hội lễ vẫn được xây dựng, tổ chức ở khắp nơi.
=> Chính sách “độc tôn Nho học” của nhà nước Lê sơ, trên thực tế, đã không được thi hành một cách có hiệu quả.
Tác phẩm điêu khắc gỗ tiêu biểu nhất ở nước ta trong các thế kỉ XVI – XVIII là
Tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (Bắc Ninh) là tác phẩm điêu khắc gỗ tiêu biểu nhất ở nước ta trong các thế kỉ XVI đến XVIII. Tác giả Trương Thọ Nam đã tiếp thu và nâng nghệ thuật của pho tượng này lên đỉnh cao bởi giao lưu với nền nghệ thuật điêu khắc Ấn Độ, nền điêu khắc Chăm, nhất là những cánh tay của Phật như những cánh tay vũ nữ thanh khiết của Chăm. Trang phục của Quan Âm được tác giả chuyển sang hình khối, bố cục đường nét rất lãng mạn theo phong cách Việt Nam mà ông đã tiếp thu được từ nền nghệ thuật Lý - Trần qua cách mô tả sen. Sen thời Lý được chạm rồng trên các cánh hoa, sen thời Lê được chạm khắc theo những nét lửa Lê - ngọn lửa của truyền thống chống ngoại xâm.
Công trình được xây dựng từ cuối thế kỉ XIV, là điển hình của nghệ thuật xây thành ở nước ta và ngày nay đã được công nhận là Di sản văn hóa thế giới
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp), trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.